Tài liệu tham khảo môn Ngữ văn lớp 8

Tài liệu tham khảo môn Ngữ văn lớp 8

HỌC KÌ I

Viết bài tập làm văn số 1 – Văn tự sự

Đề 1: Tôi thấy mình đã khôn lớn

Dàn bài

a) MB:

- Có sự tự cảm nhận mình đã khôn lớn.

b) TB:

1/ Lớn về thể xác:

- Cao hơn, lớn hơn (so với bố mẹ, mặc quần áo đã chật) đã ra dáng chàng trai, cô gái  sự thay đổi về ngoại hình.

- Thay đổi về sở thích, sự quan tâm.

(Nếu là bạn nam thì so sánh với bố, bạn gái thì so sánh với mẹ).

2/ Lớn khôn về ý thức:

- Giúp đỡ bố mẹ việc nhà một cách tự giác và làm rất tốt

- Tự ý thức trong giờ giấc sinh hoạt cá nhân.

c) KB:

- Nêu cảm nghĩ về sự khôn lớn của bản thân.

 

doc 68 trang Người đăng haiha30 Lượt xem 1216Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu tham khảo môn Ngữ văn lớp 8", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 TÀI LIỆU THAM KHẢO
 MÔN NGỮ VĂN LỚP 8.

HỌC KÌ I
Viết bài tập làm văn số 1 – Văn tự sự
Đề 1: Tôi thấy mình đã khôn lớn
Dàn bài
a) MB:
- Có sự tự cảm nhận mình đã khôn lớn.
b) TB:
1/ Lớn về thể xác:
- Cao hơn, lớn hơn (so với bố mẹ, mặc quần áo đã chật) đã ra dáng chàng trai, cô gái ® sự thay đổi về ngoại hình.
- Thay đổi về sở thích, sự quan tâm.
(Nếu là bạn nam thì so sánh với bố, bạn gái thì so sánh với mẹ).
2/ Lớn khôn về ý thức:
- Giúp đỡ bố mẹ việc nhà một cách tự giác và làm rất tốt
- Tự ý thức trong giờ giấc sinh hoạt cá nhân.
c) KB:
- Nêu cảm nghĩ về sự khôn lớn của bản thân.
Bài tham khảo 1
Chiều hôm qua, khi mẹ đi làm về, thấy tôi đã lau chùi nhà cửa sạch sẽ, sắp xếp gọn gàng, mẹ đã có lời khen tôi “Con của mẹ đã khôn lớn, đã biết đỡ đần bố mẹ”. Tôi thật sung sướng và nghĩ: “À, mình đã khôn lớn thật rồi”.
Tôi nhớ lại, gần đây, trong những lần soi gương, lắm lúc tôi thấy mình thật lạ. Trong gương có một thiếu nữ môi chúm chím hồng, da mịn màng, mắt long lanh, mái tóc dài đen mượt đang nhìn tôi chăm chú. Tôi tự hỏi: “Mình đó sao? Sao trông mình lạ và lớn quá nhỉ? Đâu rồi con bé đen nhẻm, tinh nghịch như con trai, tóc buộc đuôi gà lúc nào cũng rối tung?” Sở thích của tôi cũng đã thay đổi. Lúc trước, mẹ có mắng như thế nào thì tôi cũng tìm cách lẻn đi bắn bi, đá bóng với lũ con trai trong xóm. Nhưng 
dạo gần đây, tôi thấy ngài ngại thế nào ấy. Bây giờ, tôi thích xem mẹ cắm hoa, nấu ăn,những việc mà trước đây mẹ có bắt tôi theo xem mẹ làm thì tôi cũng ngó lơ.
Còn bộ đồng phục mẹ mua cho tôi trước, giờ đã chật và ngắn không mặc được nữa. những lúc đứng gần mẹ, tôi đã thấy mình cao hơn một chút. Vài người quen còn bảo tôi rất giống mẹ thời con gái. Mẹ cũng hay nhắc nhở tôi: “Con gái đã lớn rồi. Ăn nói, đi đứng phải ý tứ, dịu dàng”. Ồ! Vậy là tôi đã lớn rồi ư?
Gần đây, tôi cũng có những niềm tự hào nho nhỏ. Đó là mẹ hay nhờ tôi phụ giúp những việc vặt như lau nhà, giặt đồ, dọn cơm,và bao giờ cũng được mẹ khen: “Con gái của mẹ thật chăm và khéo”. Có đôi lần, mẹ đi vắng cả ngày đã giao tôi trông nhà, dọn dẹp nhà cửa và nấu cơm. Tôi đã sắp xếp công việc và hoàn thành rất tốt. Mẹ về nhà cửa đã gọn gàng. Bố còn khen tôi nấu ăn ngon. Vậy mà tôi nhớ trước đó không lâu, khoảng đầu năm học lớp bảy, tôi là một đứa vụng về và hậu đậu, đụng đến cái gì là hỏng cái đấy. Đến nỗi mẹ tôi đã đặt cho tôi biệt danh là “Tồ”. Vậy mà giờ đâyTôi đã khôn lớn thật rồi. Còn nhớ trước đây, mẹ luôn phàn nàn về giờ giấc sinh hoạt của tôi. Việc gì tôi cũng đợi mẹ nhắc mới làm; bài vở đợi mẹ nhắc tôi mới học, sáng đợi mẹ gọi tôi mới dậy đi học,Còn bây giờ, tôi là tấm gương cho em tôi vì mẹ hay bảo với nó: “ Con xem chị kìa, có bao giờ để mẹ phải nhắc nhở không?”. Nghe mẹ nói mà tôi sướng rơn. Tôi bây giờ đã khôn lớn rồi, đã hiểu những nhọc nhằn mà mẹ phải chăm sóc cho gia đình. Tôi đã hiểu rằng phải đỡ đần cho mẹ bớt vất vả bằng cách tự lo được cho mình. Giờ giấc học hành, sinh hoạt tôi sắp xếp theo thời gian biểu và thực hiện rất nghiêm chỉnh. Nhờ biết tự điều chỉnh nên sức học của tôi cũng tiến bộ thấy rõ. Tôi còn làm một việc mà trước đây tôi chưa bao giờ nghĩ đến đã làm cho bố mẹ rất vui là kèm em tôi học.
 Noi gương chị em tôi cũng ngoan hơn. Tôi đã ý thức được: Mình đã khôn lớn, phải có trách nhiệm với bản thân và gia đình.
Chúng ta rồi ai cũng khôn lớn, trưởng thành – cả về thể xác lẫn ý thức. Phải khôn lớn để chúng ta có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Tôi rất hãnh diện và tự hào vì mình đã khôn lớn. Tôi sẽ phấn đấu rèn luyện để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.
Bài tham khảo 2
Gần đây, có một sự kiện đã làm thay đổi con người và suy nghĩ của tôi. Tôi tự thấy mình đã khôn lớn.
Dạo này, tôi thấy mình rất lạ: Tôi hay soi gương và nhìn chăm chú cái thằng tôi trong gương – việc mà trước đây tôi chúa ghét và cho rằng chỉ có bọn con gái mới điệu đàng trước gương như thế. Ôi chao, sao mà trông tôi lạ thế! Những hàng ria mép không mong đợi xuất hiện lún phún đen mướt xung quanh miệng tôi. Những cái mụn trứng cá cứ thi nhau nở rộ. Còn nữa, giọng nói của tôi vỡ ra ồm ồm như là vịt đực. Tôi cao phỏng phao lên, bộ đồng phục mẹ mua cho đầu năm lớp bảy đã ngắn và chật. Tôi đã ra dáng một chàng trai. Tôi nhận ra mình đã lớn. Tôi rất vui sướng và tự hào về điều này. 
Những lúc bố đi công tác vắng nhà tôi đã có thể giúp mẹ những việc nặng nhọc của đàn ông “sức dài vai rộng”: khi thì leo lên mắc giúp mẹ cái bóng đèn, lúc thì dịch chuyển cái tủ đi nơi khác theo ý của mẹ. Những lúc đứng cạnh mẹ tôi phát hiện mình đã cao hơn mẹ và trong tôi có một cảm giác rất lạ: ước ao được chở che, bảo vệ cho mẹ. Tôi thủ thỉ điều này với mẹ, mẹ âu yếm nhìn tôi – vì tôi đã “thỏa thuận” với mẹ là tôi đã lớn và mẹ đừng ôm ấp vuốt ve như lúc tôi còn bé – và nói: “Ôi chàng trai của mẹ, con đã lớn thật rồi”. Còn bố đối xử với tôi cũng khác hơn xưa, bố con tôi hay ngồi tranh luận về đề tài thể thao, thời sự,sôi nổi. Bố còn nói với tôi về những vấn đề thật tế nhị, “rất đàn ông”. Bố bảo: “Con đã lớn, sắp là chàng trai rồi phải hiểu biết nhiều hơn”. Những vấn đề lớn của gia đình như mua sắm một món đồ đắt tiền, hay chọn thời điểm sửa chữa lại căn nhà,bố mẹ cũng cho tôi tham gia ý kiến. Còn nhiều việc về cá nhân bố cũng để cho tôi tự quyết định. Bố bảo để tôi tập làm quen với những quyết định và học cách chịu trách nhiệm về nó.
Tôi nhận thấy mình đã lớn qua việc phục vụ cho cá nhân. Tôi còn nhớ, trước đây, tất cả sinh hoạt cá nhân của mình tôi phải nhờ mẹ làm hoặc nhắc nhở. Buổi sáng mẹ phải gọi tôi năm bảy lần tôi mới dậy. Mẹ hay than phiền: “Sao gọi con thức giấc giống người ta gọi đò quá!”. Tôi nhớ có lần bố giận quá phải quất roi vào mông tôi mới chịu dậy. Còn việc học 
của tôi thì ba mẹ phải kiêm luôn là “gia sư” của tôi. Bố mẹ phải theo dõi lịch học, thi, kiểm tra để nhắc nhở tôi. Bây giờ nhớ lại tôi thấy thật xấu hổ. Tôi bây giờ như một người hoàn toàn khác. Sinh hoạt rất ngăn nắp và có giờ giấc. Từ việc học đến các sinh hoạt cá nhân tôi đều sắp xếp thời gian biểu hợp lí và thực hiện rất nghiêm túc.
 Chủ nhật vừa rồi bố mẹ có việc về quê đột xuất và phải sáng thứ hai mới về. Trước khi đi, bố mẹ dặn dò tôi rất tỉ mỉ: “Bố mẹ về quê có việc hai ngày mới lên. Con ở nhà trông nhà cẩn thận. Đưa đón em đi học, lo cho em ăn uống đàng hoàng. Thức ăn có sẵn trong tủ. Mẹ sẽ thường xuyên gọi điện thoại về cho con. Nếu có việc gì bất ổn con gọi điện thoại cho ba mẹ hoặc chạy qua nhờ bác Liên hàng xóm nhé”. Bố mẹ tôi chưa bao giờ vắng nhà qua đêm để anh em tôi ở nhà một mình mà không có người lớn. Có lẽ những biểu hiện gần đây của tôi đã khiến bố mẹ tôi yên tâm chăng? Bố mẹ ra khỏi nhà tôi bắt đầu thực hiện vai trò là người “chủ gia đình bất đắc dĩ” của mình. Việc đầu tiên tôi gọi cô em gái đang học lớp bốn của mình dậy, nhắc em làm vệ sinh cá nhân và đi mua đồ ăn sáng cho hai anh em. Sau đó, tôi lau dọn nhà cửa, dạy em học và tranh thủ ôn bài chuẩn bị cho buổi học đầu tuần. Buổi trưa, tôi cũng bắt chước mẹ làm bếp, bữa cơm của hai anh em khi mẹ vắng nhà cũng ổn dù không được ngon như mẹ nấu (dĩ nhiên rồi). Buổi chiều cũng trôi qua êm xuôi. Buổi tối mới đáng lo. Anh em tôi chưa bao giờ phải ngủ một mình không có người lớn. Căn nhà vốn đã rộng, đêm bố mẹ vắng nhà càng như rộng hơn. Tôi đóng tất cả cửa lớn nhỏ một cách cẩn thận và trong lòng cũng sợ lắm, không biết cụ thể là sợ điều gì (bóng tối, sợ ma, trộm)? Nhưng bạn có biết tôi phải gồng mình lên ra vẻ can đảm để trấn tĩnh tinh thần cô em gái vốn nhút nhát của mình. Một đêm không mong đợi với nhiều nỗi lo sợ rồi cũng trôi qua bình yên. Sáng hôm sau tôi thức em dậy sớm, hai anh em ăn sáng rồi cùng đến trường. Buổi trưa về đã thấy bố mẹ ở trong nhà. Tôi nhận ra chưa bao giờ mình lại mong ba mẹ về đến thế. Sau khi hỏi han mọi việc, bố xoa đầu tôi nói: “Vậy là con trai của bố đã lớn khôn rồi đấy”. Mẹ nhìn tôi âu yếm đầy vẻ tự hào.
Thật hạnh phúc và tự hào khi mình đã lớn khôn, có ích cho gia đình và là niềm tự hào của bố mẹ. Tôi biết bản thân còn phải cố gắng hơn nhiều để thực sự ngày càng khôn lớn.
Đề 2: Kỉ niệm ngày đầu tiên đi học.
Dàn bài
a) Mb:
- Thấy các em nhỏ chuẩn bị sách vở, quần áo đón năm học mới, tôi lại nôn nao nhớ đến ngày đầu tiên đi học của mình.
(Hoặc: 
- Tình cờ trông thấy bức ảnh trong ngày đầu mình đi học.
- Một món quà lưu niệm gợi nhớ ngày đầu tiên đi học,)
- Nhớ nhất là những cảm giác bỡ ngỡ, hồi hộp, sợ sệt của mình.
b) Tb:
1/ Trước ngày khai giảng:
- Trước ngày đi học, tôi được mẹ mua quần áo mới, tập sách mới. Lòng nôn nao không ngủ được. 
- Trằn trọc, rồi lại ngồi dậy mân mê chiếc cặp mới và những quyển tập còn thơm mùi giấy.
Sáng, tôi dậy thật sớm, thay bộ đồng phục mới tinh mẹ mua từ mấy hôm trước. Trong lòng bồi hồi khó tả.
2/ Trên đường đến trường:
- Chỉnh tề trong bộ đồng phục áo trắng quần xanh, đội nón lúp xúp đi bên cạnh mẹ. 
- Bầu trời buổi sớm mai trong xanh, cao vòi vọi, vài tia nắng xuyên qua cành cây, tán lá. Vài chú chim chuyền cành hót líu lo.
- Xe cộ đông đúc, bóp còi inh ỏi.
- Hàng quán hai bên đường đã dọn ra, buôn bán nhộn nhịp.
- Có nhiều anh chị học sinh với khăn quàng đỏ trên vai, tươi cười đi đến trường.
- Hôm ấy là ngày tổng khai giảng năm học mới nên phụ huynh đưa con đến trường thật đông.
- Tôi trông thấy vài anh chị trong xóm, các bạn học mẫu giáo chung cũng được ba mẹ đưa đến trường.
- Cảnh vật quen thuộc mọi ngày sao hôm nay thấy khác lạ. 
- Lòng tôi hồi hộp pha lẫn cảm giác e ngại rụt rè khi gần đến cổng trường tiểu học.
3/ Vào sân trường:
- Ngôi trường bề thế, khang trang hơn trường mẫu giáo nhiều.
- Trước cổng trường được treo một tấm băng rôn màu đỏ có dòng chữ mà tôi lẩm nhẩm đánh vần được: “Chào mừng năm học mới”.
- Sân trường thật nhộn nhịp với cờ hoa, học sinh, phụ huynh, giáo viên,trông ai cũng tươi vui rạng rỡ, áo quần tươm tất.
- Các anh chị lớp lớn vui mừng tíu tít trò chuyện với nhau sau ba tháng hè mới gặp lại.
- Tôi quan sát thấy nhiều bạn có lẽ cũng là học sinh mới vào lớp một như tôi bởi cái vẻ rụt rè, nhiều bạn còn bíu chặt lấy tay mẹ và khóc nức nở làm mắt tôi cũng rơm rớm theo.
- Một hồi trống vang lên, theo hướng dẫn của một thầy giáo các anh chị nhanh chóng xếp hàng vào lớp. Chỉ có lũ học trò lớp một bọn tôi là bối rối không biết phải làm gì.
- Chúng tôi được các cô giáo chủ nhiệm đọc tên điểm danh, có nhiều bạn được gọi tên nhưng lại sợ sệt im lặng không đáp lời cô đến nỗi phụ huynh phải lên tiếng đáp thay. Khi nghe gọi đến tên tôi, tôi giật mình. Tim đập nhanh. Trán rịn mồ hôi. Dù đã đi học mẫu giáo rồi nhưng trong lòng tôi vẫn cảm thấy hồi hộp, lo sợ thế nào ấy. Khi buông tay mẹ để bước vào hàng tôi có cảm giác bơ vơ lạc lõng. Vậy là tôi đã bước vào một thế giới khác: rộng lớn và đầy màu sắc hơn. Nhiều bạn òa lên khóc nức nở bám lấy mẹ không chịu x ...  hôn vai và hôn cả vết sẹo dài trên má ba nó nữa”, “dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó” (muốn giữ ba nó ở lại), khóc mếu máu với lời dặn “ba mua cho con một cái lược, nghe ba” ® bé Thu đã hiểu, muốn bù đắp tình cảm những ngày qua ® tình cảm với cha rất mãnh liệt.
Nhận xét đánh giá:
- Qua “Chiếc lược ngà”, người đọc nhận ra hậu quả tinh thần không nhỏ mà chiến tranh gây ra. Nó phần nào làm sứt mẻ, mất mát tình cảm gia đình, là niềm đau nhức nhối, dai dẳng trong lòng con người. Đây là đóng góp quan trọng của tác giả.
- Truyện còn giúp người đọc nhận ra đời sống tình cảm mãnh liệt của con người Việt Nam,vẻ đẹp tâm hồn. Chiến tranh dù khốc liệt đến đâu cũng không hủy diệt được tình cảm gia đình, tình cảm con người.
Nghệ thuật:
- Để thực hiện những điều trên, nhà văn đã sử dụng: tình huống độc đáo (cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách, bé Thu không nhận cha. Lúc nhận ra thì ông Sáu lại phải ra đi (tình huống cơ bản). Ở khu căn cứ, ông dồn hết tình cảm thương nhờ con vào việc làm chiếc lược ngà để tặng 
con nhưng ông đã hy sinh khi chưa kịp trao cho con món quà ấy. Xây dựng nhân vật khá thành công (bé Thu hiện lên đặc sắc, cụ thể, sinh động, tính cánh nhất quán, mạnh mẽ: cứng cỏi, ương ngạnh nhưng hồn nhiên, ngây thơ, chân thành, mãnh liệt trong tình cảm; ông Sáu chân thành, sâu sắc rất mực yêu thương con và là một chiến sĩ kiên cường, giàu lòng yêu nước); chi tiết chiếc lược ngà đã nối kết hai cha con trong sự xa cách ngay cả khi ông đã hi sinh, là hiện thân của tình yêu thương, nỗi mong nhớ của ông Sáu với con và nó trở thành kỉ vật của tình cha con sâu nặng.
- Câu chuyện được kể từ ngôi thứ nhất, người kể xưng “tôi” có mặt và chứng kiến toàn bộ câu chuyện có tác dụng rõ rệt trong việc vừa kể chuyện vừa bày tỏ sự đồng cảm với các nhận vật và thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Kb: 
- Tác giả đã thể hiện thành công đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh. Đó là tình cha con (chủ yếu), tình vợ chồng thắm thiết gợi nhiều xúc động, suy nghĩ về tình cảm con người trong chiến tranh.
- Qua tác phẩm, người đọc hiểu thêm về chiến tranh và tình cảm con người trong chiến tranh.
- Thấy được tài năng của nhà văn.
Viết bài tập làm văn số 7 – Nghị luận văn học
 Đề: Phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy
Nguyễn Duy thuộc thế hệ làm thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.Vừa mới xuất hiện, Nguyễn Duy đã nổi tiếng với bài “Tre Việt Nam”. Bài “Hơi ấm ổ rơm” của ông đã từng đoạt giải hưởng báo Văn nghệ. “Ánh trăng” cũng là một trong những bài thơ được nhiều độc giả yêu thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ mới lạ.
Qua bài thơ, tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ, chiêm nghiệm về một lẽ sống cao quý trong cuộc đời của mỗi con người.
Khổ thơ mở đầu như những lời tự sự ghi lại những dòng hồi ức của tác giả về quá khứ:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Trăng gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu. Trăng gắn với đồng ruộng, dòng sông, biển cả. Dù ở đâu, đi đâu trăng cũng ở bên cạnh. Nhưng phải đến khi ở rừng, nghĩa là lúc tác giả sống trên tuyến đường Trường Sơn, xa gia đình, quê hương, vầng trăng mới thành “tri kỷ”. Trăng với tác giả là đôi bạn không thể thiếu nhau, hiểu biết, thông cảm lẫn nhau. Điệp từ “hồi”, “với” diễn tả cuộc sống nhiều biến động của một con người. Điều ấy chứng tỏ nhà thơ đã đi nhiều, trải nhiều... Qua những hình ảnh không gian “đồng”, “sông”, “bể”, “rừng”, tác giả đã diễn tả tinh tế sự vận động của thời gian gắn bó với sự trưởng thành của nhà thơ lớn lên từ đồng nội...
® Tác giả như khắc đậm thêm tình cảm của mình đối với trăng:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Trăng có vẻ đẹp bình dị vô cùng, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách vô tư, hồn nhiên. Trăng tượng trưng vẻ đẹp thiên nhiên nên trăng hòa vào thiên nhiên, hòa vào cây cỏ. Hay nhà thơ còn muốn diễn tả sự gần gũi giữa mình với thiên nhiên, gần gũi với trăng: “Trần trụi với thiên nhiên”. Tâm hồn người chiến sĩ lúc ấy cũng “hồn nhiên” vô tư đến độ “như cây cỏ”... Vầng trăng “tri kỷ” đã đẹp rồi mà “vầng trăng tình nghĩa” còn cao quý biết nhường nào:
“ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Trăng mỗi tháng một lần theo chu kỳ tuần hoàn của thiên nhiên, lại đến với con người. Trăng mang ánh sáng đến cho con người giữa ban đêm. Trăng tỏa ánh sáng xuống vòm cây, soi tỏ những lối đi, tỏa vẻ đẹp dịu mát xuống sân nhà. Trăng làm vui vẻ trẻ con, làm ấm lòng người già, trăng tạo mộng mơ cho đôi lứa, trăng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ với những người lính ở rừng núi. Cái “tình nghĩa” vẹn toàn ấy của trăng làm sao con người có thể quên được. Cách nhân hóa “vầng trăng thành tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” thể hiện tình cảm nặng lòng của tác giả đối với trăng biết nhường nào!
Từ “ngỡ” ở đầu câu thơ thứ ba như báo trước một điều gì sẽ xảy ra trái với dự đoán và suy nghĩ ban đầu...
® Điều ấy đã trở thành hiện thực, điều “ngỡ không bao giờ quên” ấy bây giờ đã quên:
“Từ hồi về thanh phố
như người dưng qua đường”
Trước đây tác giả sống với sông, với bể, với rừng, bây giờ môi trường sống đã thay đổi. Tác giả về sống với thành phố. Đời sống cũng thay đổi theo, quen “ánh điện, cửa gương”. “Ánh điện” và “cửa gương” tượng trưng cho cuộc sống sung túc, đầy đủ sang trọng... dần dần “cái vầng trăng tình nghĩa” ngày nào bị tác giả lãng quên. Phải chăng “vầng trăng” ở đây tượng trưng cho những năm tháng gian khổ ấy. Đó là tình bạn, tình đồng chí được hình thành từ những tháng năm gian khổ ấy. “Trăng” bây giờ thành “người dưng”... Hình ảnh nhân hóa ở đây thật sinh động “đi qua ngõ”. Trăng đâu có cao xa vời vợi, trăng vẫn gần gũi thân thương vậy mà con người thật lạnh lùng dửng dưng... Rõ ràng hoàn cảnh tác động đến con 
người thật mạnh mẽ. Bởi thế người đời vẫn thường nhắc nhau: “Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay – Ra sông nhớ suối có ngày nhớ đêm”.
Khổ thơ này có kết cấu đối lập, một bên là “ánh điện, cửa gương” sáng lòa, lộng lẫy, rực rỡ và một bên là “ánh trăng” dịu ngọt, thanh nhẹ. Đặt những hình ảnh có vẻ đối lập bên nhau, Nguyễn Duy muốn bộc lộ kín đáo một lời tự thú chân thành, nghiêm khắc.
® Bài thơ được phát triển đến một tứ thơ có chút kịch tính:
“Thình lình đèn điện tắt
đột ngột vầng trăng tròn”
Cử chỉ “vội bật tung cửa sổ” lúc bấy giờ chỉ là phản xạ hết sức tự nhiên của một người quen với ánh sáng điện nay lại bị giam trong bóng tối, mong có được một chút ánh sáng bên ngoài cho căn phòng đỡ tối tăm hơn mà thôi. Nhưng may mắn thay cũng là trớ trêu thay, lúc ấy lại có trăng. Trăng trở nên quý giá biết bao vào những khi mất điện. Và riêng tác giả, cái vầng trăng đột ngột hiện trên khoảng trời kia đâu phải chỉ để thay thế trong khoảnh khắc cho sự cố vừa rồi, mà nó còn làm xáo trộn tâm hồn thi sĩ:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
như là sông, là rừng”
Trong câu thơ “Ngửa mặt lên nhìn mặt”, tác giả dùng đối xứng hai từ “mặt” rất hay. Đó là nhìn mặt tri kỷ, mặt của tình nghĩa mà bấy lâu nay mình dửng dưng. Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại người bạn tuổi thơ, như gặp lại người bạn từng sát cánh bên nhau trong những tháng năm gian khổ. Từ gợi tả “rưng rưng” diễn tả nỗi xúc động của thi sĩ... Những kỉ niệm ngày nào bấy lâu tưởng bị chôn vùi nay lại ùa về đánh thức tâm hồn người trong cuộc:
“như là đồng là bể
như là sông, là rừng”
Điệp từ “như là” cùng với nhịp thơ gấp bộc lộ rất rõ cảm xúc đang trào dâng mạnh mẽ...
® Khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm trong suy tư, trong chiêm nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời:	
 “Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.”
Hình ảnh “vầng trăng” còn được nhà thơ nhìn lại “tròn vành vạnh” thật là đẹp, một cái đẹp viên mãn không hề bị khiếm khuyết. Cái ánh sáng tròn đầy hay cũng là cái đẹp của tình nghĩa thủy chung, nhân hậu mặc cho ai kia thay đổi, vô tình. Và cao quý biết bao bởi vì “vầng trăng” ngày nào còn tỏ ra bao dung độ lượng: “kể chi người vô tình”. Nhưng chính ánh trăng vô ngôn, không một lời trách cứ ấy đã khiến cho “người vô tình” thấy rõ cái khiếm khuyết của bản thân mà không khỏi “giật mình” tỉnh ngộ:
“ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Ánh trăng hay là ánh nhìn? Vừa nghiêm khắc, lạnh lùng, vừa bao dung độ lượng, “sự im lặng đáng sợ” ấy khiến kẻ trong cuộc phải “giật mình” vì đến lúc này mới nhận rõ mình hơn. Cái “giật mình” chân thành thay cho một lời sám hối. Đó chính là cái hay và độc đáo của bài thơ có sức cảm hóa lòng người.
Bài thơ gây được xúc động bởi cách diễn tả như một lời tâm sự chân thành, lời tự nhắc nhở có giọng trầm tĩnh mà lắng sâu. Khổ thơ cuối của bài thơ mang chiều sâu tư tưởng triết lý: vầng trăng cứ tròn đầy lặng lẽ, “kể chi người vô tình”, là biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi hỏi sự đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc.
Kb: 
Với một giọng điệu thơ nhẹ nhàng, sâu lắng kết hợp với thể thơ ngũ ngôn và việc không viết hoa chữ cái đầu dòng thơ – thể thơ phù hợp với việc tự sự, bộc lộ cảm xúc, bài thơ “Ánh trăng” đã thực sự gây nhiều xúc động đối với bao độc giả. Có lẽ ai đã từng đọc “Ánh trăng” cũng đều nghiêm khắc với chính mình như thế vì một thời quá khứ chưa được đánh giá đúng mức. Vâng, muộn còn hơn không, mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm với những gì thuộc về quá khứ. Hẳn “Ánh trăng” không chỉ làm “giật mình” một Nguyễn Duy mà thôi!
Viết bài tập làm văn số 8 – Thi học kì 2
Mục lục
CHƯƠNG TRÌNH TẬP LÀM VĂN 8
	 Trang 
HỌC KÌ I
Viết bài tập làm văn số 1 – Văn tự sự.2
Viết bài tập làm văn số 2 – Văn tự sự kết hợp với miêu tả...10
Viết bài tập làm văn số 3 – Văn thuyết minh............17
Viết bài tập làm văn số 4 – Thi học kì 1
HỌC KÌ II
Viết bài tập làm văn số 5 – Văn thuyết minh	..32
Viết bài tập làm văn số 6 – Văn nghị luận....45
Viết bài tập làm văn số 7 – Văn nghị luận....47
Viết bài tập làm văn số 8 – Thi học kì 2	
GIỚI THIỆU CHƯƠNG TRÌNH TẬP LÀM VĂN 9
HỌC KÌ I
Viết bài tập làm văn số 3 – Văn thuyết minh............52
Viết bài tập làm văn số 1 – Văn tự sự...55
Viết bài tập làm văn số 2 – Văn tự sự ..57
Viết bài tập làm văn số 4 – Thi học kì 1
HỌC KÌ II
Viết bài tập làm văn số 5 – Văn nghị luận xã hội..59
Viết bài tập làm văn số 6 – Văn nghị luận văn học...60
Viết bài tập làm văn số 7 – Văn nghị luận văn học...64
Viết bài tập làm văn số 8 – Thi học kì 2	
Chương trình tập làm văn lớp 9 có thể học từ lớp 8, để nhằm hướng đến sự liên tục và tiếp nối, từ đó đạt được hiệu quả cao hơn trong quá trình dạy và học với phương châm:
“Học văn không chỉ là học văn”

Tài liệu đính kèm:

  • docON TAP NGU VAN 8.doc