I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Hiện nay việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã và đang được các thầy cô thực hiện đồng bộ. Mặc dù còn có rất nhiều ý kiến về việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy, song từ những trải nghiệm thực tế, chúng ta có thể khẳng định rằng việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã giúp các em tiếp xúc được nhiều tác phẩm hay, mới lạ, cập nhật vơí cuộc sống. Không những thế, đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn ngữ văn nói riêng giúp các em biết tư duy sáng tạo, biết phát hiện vấn đề, biết nói lên những suy nghĩ, cảm nhận của riêng mình. Mỗi giờ học văn là một niềm vui bất ngờ đối với các em, các em chủ động học tập hơn trước nhiều. Nhiều hình thức học tập ngoài giờ chính khoá đã được tổ chức, giáo viên đã quen dần với lối dạy theo nguyên tắc tích cực, đã có nhiều sáng kiến trong việc phát huy tính tích cực trong mọi khâu của hoạt động dạy học.
Qua những năm thực hiện chương trình thay sách và đổi mới phương pháp daỵ học nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng, tôi đã được dự nhiều giờ, song điều tôi còn băn khoăn là một số thầy cô vẫn thuyết trình nhiều, việc cung cấp kiến thức đôi khi còn mang tính chất áp đặt, đặc biệt ở khâu “đọc – hiểu văn bản”. Tôi thiết nghĩ có nhiều cách để phát huy tính tích cực của học sinh như thực hiện thật tốt, thật sáng tạo nguyên tắc tích hợp vì theo giáo sư Nguyễn Khắc Phi khẳng định “ xét về bản chất của việc vận dụng triệt để nguyên tắc ấy không cho phép dạy học theo kiểu máy móc rập khuôn, nhồi sọ mà luôn luôn đòi hỏi sự năng động, sự vận dụng linh hoạt sáng tạo của người thầy”.
Chính vì vậy, tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến của phương châm tích hợp trong quá trình ứng dụng đó là: “Một cách “đọc – hiểu văn bản” trong bài học ngữ văn 8”.
*****@***** skkn Môn: ngữ văn lớp 8 2008 – 2009 Một cách “đọc hiểu văn bản” trong bàI ngữ văn 8 I. Đặt vấn đề. Hiện nay việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã và đang được các thầy cô thực hiện đồng bộ. Mặc dù còn có rất nhiều ý kiến về việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy, song từ những trải nghiệm thực tế, chúng ta có thể khẳng định rằng việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã giúp các em tiếp xúc được nhiều tác phẩm hay, mới lạ, cập nhật vơí cuộc sống. Không những thế, đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn ngữ văn nói riêng giúp các em biết tư duy sáng tạo, biết phát hiện vấn đề, biết nói lên những suy nghĩ, cảm nhận của riêng mình. Mỗi giờ học văn là một niềm vui bất ngờ đối với các em, các em chủ động học tập hơn trước nhiều. Nhiều hình thức học tập ngoài giờ chính khoá đã được tổ chức, giáo viên đã quen dần với lối dạy theo nguyên tắc tích cực, đã có nhiều sáng kiến trong việc phát huy tính tích cực trong mọi khâu của hoạt động dạy học. Qua những năm thực hiện chương trình thay sách và đổi mới phương pháp daỵ học nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng, tôi đã được dự nhiều giờ, song điều tôi còn băn khoăn là một số thầy cô vẫn thuyết trình nhiều, việc cung cấp kiến thức đôi khi còn mang tính chất áp đặt, đặc biệt ở khâu “đọc – hiểu văn bản”. Tôi thiết nghĩ có nhiều cách để phát huy tính tích cực của học sinh như thực hiện thật tốt, thật sáng tạo nguyên tắc tích hợp vì theo giáo sư Nguyễn Khắc Phi khẳng định “ xét về bản chất của việc vận dụng triệt để nguyên tắc ấy không cho phép dạy học theo kiểu máy móc rập khuôn, nhồi sọ mà luôn luôn đòi hỏi sự năng động, sự vận dụng linh hoạt sáng tạo của người thầy”. Chính vì vậy, tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến của phương châm tích hợp trong quá trình ứng dụng đó là: “Một cách “đọc – hiểu văn bản” trong bài học ngữ văn 8”. II. Cơ sở lý luận. Phải nói rằng, lứa tuổi học sinh THCS đặc điểm tâm sinh lý hết sức điển hình. Đây là thời kỳ quá độ chuyển từ giai đoạn trẻ em sang người lớn. Trong giai đoạn này hứng thú của các em đã phát triển ở mức độ cao, hứng thú về học tập đã phát triển và ngày càng đậm nét. Đây là một đặc điểm hết sức thuận lợi đối với việc giảng dạy bộ môn Văn. Việc tò mò thích thú môn văn không phải là khoảng cách xa đối với các em. Bên cạnh đó ý thức tư lập và khả năng đào sâu khám phá những nét đẹp trong cuộc sống là một ưu điểm điển hình của học sinh bậc THCS. Song song với những ưu điểm trên, một số em còn rụt rè e ngại, đôi lúc còn nản chí, nản lòng khi tiếp cận với một văn bản khó. Vậy làm thế nào để khắc phục khó khăn đó? Làm thế nào để tiết dạy học môn Ngữ Văn thật sự có hiệu quả để thu hút học sinh say mê học tập? Như chúng ta đã biết, văn học xuất phát từ đời sống, chính vì thế văn học rất gần gũi với mọi người. Những bài thơ hay, những văn bản hấp dẫn đã giúp cho giờ văn không chỉ là giờ học mà còn là những giờ giải trí, khám phá biết bao điều kỳ diệu của cuộc sống con người. Để có giờ văn như thế thì khâu “đọc – hiểu văn bản” là rất quan trọng đòi hỏi người thầy chủ động, sáng tạo và linh hoạt khi thiết kế bàI giảng. III.Cơ sở thực tiễn Như chúng ta đã biết “văn học là nhân học”, “văn học là nghệ thuật của ngôn từ”. Chính vì vậy việc học văn không phải là đơn giản, hơn nữa trong thời đại hiện nay, môn ngữ văn không còn là “điểm đến” hấp dẫn với các em học sinh như các môn Toán, Lý, Hoá, Anh mặc dù đó là một trong 2 môn chính chiếm số lượng tiết không nhỏ. Có nhiều học sinh rất ngại học môn Văn bởi lý do là Văn viết dài, khó học, khó thuộc. Có những tác phẩm tự sự dài học sinh lười không đọc hết dẫn tời tình trạng mơ màng về nội dung, cốt truyện, nhân vật. Có những bài thơ khi học xong học sinh không nắm được những nghệ thuật tiêu biểu, nội dung của bài thơ. Những lý do trên khiến tâm lý học sinh ngại và chán học môn Văn. Vậy làm thế nào để khắc phục khó khăn đó? Làm thế nào để tiết dạy học môn Ngữ Văn thật sự có hiệu quả để thu hút học sinh say mê học tập? Như chúng ta đã biết, văn học xuất phát từ đời sống, chính vì thế văn học rất gần gũi với mọi người. Những bài thơ hay, những văn bản hấp dẫn đã giúp cho giờ văn không chỉ là giờ học mà còn là những giờ giải trí, khám phá biết bao điều kỳ diệu của cuộc sống con người. Để có giờ văn như thế thì khâu “đọc – hiểu văn bản” là rất quan trọng đòi hỏi người thầy chủ động, sáng tạo và linh hoạt khi thiết kế bàI giảng. IV. Các giảI pháp Như chúng ta đã biết, trong ba phân môn của ngữ văn thì tác phẩm văn học chiếm vị trí quan trọng. Trong sách giáo khoa phần Văn học được biểu hiện bằng các văn bản. Khi học tập học sinh phải “đọc – hiểu văn bản”. Vậy “đọc - hiểu văn bản” là gì? Khái niệm “đọc - hiểu văn bản” không diến tả hành động tách rời đọc và hiểu. “Đọc - hiểu văn bản” là hoạt động đọc văn một cách nghiêm túc có nghiền ngẫm, cảm xúc, tưởng tưởng và liên tưởng. Bản chất đọc – hiểu là tìm hiểu phân tích để chiếm lĩnh văn bản bằng nhiều phương pháp và hình thức dạy học văn, trong đó phương pháp dạy học văn bằng hệ thống câu hỏi cảm thụ văn bản được thực hiện dưới hình thức đối thoại sẽ là hình thức và phương pháp chủ đạo. Các tác giả trong Ngữ Văn 6 tập một sách giáo viên đã lý giảI như sau “ khả năng đọc – hiểu (bao gồm cả cảm thụ) một tác phẩm văn chương lệ thuộc không ít vào việc có thể trả lời được hay không những câu hỏi đặt ra ở những cấp độ khác nhau. Mức thấp nhất là chỉ cần sử dụng những thông tin có ngay trong văn bản. Đó là trường hợp câu trả lời sẵn có trong bài chỉ mới biết đọc trên dòng. Mức cao hơn là buộc phải suy nghĩ và sử dụng những thông tin trong bài. Đó là trường hợp phải suy nghĩ ra câu trả lời, là trình độ đã biết đọc giữa dòng. Cao hơn là yêu cầu khái quát, liên hệ giữa những cái mà học sinh đã đọc với thế giới bên ngoài đó là trình độ vượt ra khỏi dòng để đọc văn bản. Khám phá văn bản theo hướng ấy thì học sinh khôn chỉ hứng thú hiểu sâu văn bản mà còn liên hệ được một cách sinh động tự nhiên với những vấn đề trong cuộc sống. Như vậy “đọc - hiểu văn bản” đòi hỏi người phải có thái độ chủ động tích cực và sáng tạo trong đọc văn. Các văn bản được học trong chương trình Ngữ Văn 8 bao gồm: 1.Một số truyện Việt Nam 1930 – 1945 - Tôi đi học (Thanh Tịnh) - Trong lòng mẹ (trích “Những ngày thơ ấu” – Nguyên Hồng) 2.Một số truyện nước ngoài - Cô bé bán diêm (An - đéc – xen) - Đánh nhau với cối xay gió (trích “Đôn-ki-hô tê” – Xéc-van-téc) - Chiếc lá cuối cùng (OHen-ri) Hai cây phong (Ai-man-tốp) 3.Một số văn bản thơ trữ tình giàu yếu tố biểu cảm. - Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông (Phan Bội Châu) - Đập đá ở Côn Lôn (Phan Châu trinh) - Muốn làm thằng cuội (Tản Đà) - Ông Đồ (Vũ Đình Liên) - Hai chữ nước nhà (á Nam Trần Tuấn Khải) - Nhớ rừng (Thế Lữ) - Quê hương (Tế Hanh) - Khi con tú hú (Tố Hữu) - Tức cảnh Pác Bó, ngắm trăng (Hồ Chí Minh) 4. Một số tác phẩm nghị luận - Chiếu dời đô (Lý Công Uẩn) - Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn) - Nước Đại Việt (Nguyễn Trãi) - Bàn luận về phép học (Nguyễn Thiếp) - Thuế máu (Hồ Chí Minh) - Đi bộ ngao du 5.Một số đoạn trích kịch: Ông Guốc-danh mặc lễ phục 6.Một số văn bản nhật dụng: Thông tin về trái đất năm 2000. Ôn dịch thuốc lá, giáo dục chìa khoá trong tương lai. Với các loại văn bản trên, kỹ năng “đọc - hiểu văn bản” cần đạt tới mức độ sau: 1.Biết đọc thầm, đọc thành tiếng có diễn cảm. 2. Biết chọn đọc hững đoạn văn bản có minh họa cho các nhiệm vụ học tập một cách chính xác, tốc độ vừa phải, đúng với nội dung văn bản. 3. Biết đọc nhanh các đoạn văn bản, ngữ liệu có những cách dùng từ ngữ và cấu trúc câu phức tạp với năng lực phán đoán ngôn ngữ nhanh nhạy. 4. Biết đặt câu hỏi cho mình hoặc cho người khác để hiểu mục đích văn bản và các yêu cầu của nội dung học tập. 5. Biết tóm tắt, chia đoạn, xác định chủ đề, mối liên hệ giữa các phần trong văn bản và biết đặt tên cho đoạn văn 6. Biết nhận ra các câu văn, đoạn văn hay, có nội dung sâu sắc và hiểu được nghĩa, vai trò và tác dụng của cac từ ngữ, câu then chốt, các biện pháp nghệ thuạt trong đoạn văn đó. 7. Nhớ chính xác một số câu, đoạn và văn bản hay, thơ hay biết bình giá chi tiết nghệ thuật trong các văn bản. 8. Đọc và hiểu được các phương thức biểu đạt khác nhau và đặc điểm thể loại, thái độ, tình cảm và tư tưởng của tác giả. 9. Xác định được các hệ thống luận điểm và tuyến lập luận trong các văn bản qua việc tổng kết các tác phẩm tự sự, trữ tình, nghị luận, nhật dụng và sự kết hợp các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, lập luận, thuyết minh trong một số tác phẩm qua việc hệ thống hoá các khái niệm: Loại, thể loại, đặc điểm của truyện ngắn, tiểu thuyết và thể hiện đại. Như vậy "Đọc - Hiểu văn bản" đã thực hiện phương châm tích hợp. HS vận dụng được kỹ năng, hiểu bíêt về một phân môn này vào việc học tập phân môn khác. Trong thực tế, rất hiếm những văn bản chỉ dùng một phương thức biểu đạt mà một trong những trọng tâm của phần tập làm văn là dạy cho học sinh biết phân tích, biết thực hiện sự kết hợp các phương thức ấy. Chính điều đó đã tạo ra một trường tích hợp vô cùng rộng lớn. Các câu hướng dẫn "Đọc - Hiểu văn bản" trong SGK đã tạo ra cơ chế cho sự tích hợp ấy. Điều quan trọng là giáo viên cần thực sự năng động, biết vận dụng linh hoạt và khi cần vẫn có thể tạo ra những tình huống tích hợp mới. Việc đọc hiểu, phân tích, bình giá các loại văn bản sẽ giúp HS có điều kiện tốt hơn các nội dung làm văn tự sự, thuyết minh và nghị luận. Hoạt động "Đọc - Hiểu văn bản" giúp HS qua việc đọc đúng sẽ cảm nhận và hiểu đúng những thông tin, hiển ngôn và hàm ngôn trong văn bản. Nếu quan niệm văn bản là sự tổng hợp của 3 cấu trúc: Cấu trúc ngôn ngữ, cấu trúc hình tượng và cấu trúc ý nghĩa thì đối với HS lớp 8 thực hiện tốt hoạt động "Đọc - Hiểu văn bản" có nghĩa là HS phải nắm và lý giải được mối liên hệ của 3 lớp cấu trúc này không chỉ trên phương diện của từ ngữ, câu chữ, nhịp điệu mà còn hiểu được giá trị iểu đạt và biểu cảm của ngôn từ như là phương tiên để thể hiện hình tượng nghệ thuật, hiểu được những quan điểm, tư tưởng về con người, về thời đại, về ý tưởng giáo dục của tác giả gửi gắm trong văn bản Đối với một số tryện nước ngoài trong SGK ngữ văn 8 thì đó là những văn bản tự sự tiêu biểu có lối kể chuyện hấp dẫn, nội dung giàu tính nhân đạo. các văn bản này được học song song với các nội dung làm văn, đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm cũng là do dụng ý dạy tích hơp của các tác giả nhằm giúp HS có cái nhìn toàn diện hơn về sự biến hoá của tự sự cũng như sự đan xen các yếu tố miêu tả, biểu cảm... trong văn tự sự. ở đó có sự độc đáo về cách tạo dựng tình huống truyện, cách sắp xếp tình tiết, trình tự kể, cách khắc hoạ nhân vật, cách chọn ngôi kể, lời kể.... trong giáo án mới, hoạt động "Đọc - Hiểu văn bản" có thể được tiến hành tuần tự theo 3 hướ ... chủ đề của truyện. -3 sự việc: +Giôn-xi đợi cái chết +Giôn-xi vượt qua cái chết +Cái chết của cụ Bơ-men và bí mật của chiếc lá cuối cùng. -1 HS kể tóm tắt -1 HS nhận xét, GV bổ xung. -Tác giả: 1862 – 1910, nhà văn Mỹ chuyên viết truyện ngắn. -Truyện của ông nhẹ nhàng, toát lên tinh thần nhân đạo, yêu thương người nghèo khổ rất cảm động. -Truyện sáng tác khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. -Đoạn trích chiếm khoảng 11/4 phần cuối tác phẩm. -Ngôi kể: ngôi thứ 3 –Tạo cho sự việc mang tính chất khách quan. -Phương thúc biểu đạt: tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm. -là một hoạ sĩ nghèo, kiếm tiền bằng cách ngồi làm mẫu vẽ cho các hoạ sĩ trẻ. - Mơ ước vẽ một kiệt tác nhưng 40 năm nay chưa thực hiện. -Kiệt tác là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc đã được công nhận - Sợ sệt khi thấy dây thường xuân đang rụng dần hết lá. *H/S thảo luận theo nhóm: Tự bộc lộ: VD “có lẽ thời tiết thế này thì đêm nay chiếc lá sẽ rụng. Ta phải làm gì để cứu con bé tội nghiệp. à ta có cách rồi nếu như chiếc lá cuối cùng chưa rụng” *Hoạt động chung cả lớp. B.Việc cụ bơ-men làm cho Giôn-xi vẽ chiếc lá cuối cùng trong đêm mưa tuyết lạnh lẽo. -cụ vẽ âm thầm, lặng lẽ bằng chứng là: “Người ta tìm thấy chiếc thang trộn lẫn” -Yêu thương lo lắng hết lòng cho số phận của Giôn-xi +H/S quan sát bảng phụ 2. thảo luận nhóm, làm bài tập trắc nghiệm trên giấy. -Đại diện lên làm trên bảng phụ. +Tạo cho nhân vật và người đọc bất ngờ, làm nổi bật đức hy sinh và lòng vị tha của Bơ-men. -Nghệ thuật kể chuyện đảo lộn thời gian. -Xiu nhận xét: “đó là một kiệt tác” đó là nhận xét hoàn toàn đúng. -Vì nó giống như thật đến nỗi 2 hoạ sĩ thật cũng không nhận ra. - Nó ra đời trong hoàn cảnh khắc nghiệt của một tình yêu thương mạnh mẽ và sự hy sinh cao thượng. - Nó thổi vào tâm hồn Giôn –xi hơi ấm và nghị lực, giúp cô vượt qua cái chết trở về sự sống. - Cụ không hề nghĩ như vậy mà chỉ đơn giản là may ra có thể cứu được cô bé Giôn-xi đáng thương. - Điều đó càng làm tăng thêm giá trị nhân văn của tác phẩm. -Nhà văn muốn ca ngợi tình yêu thương, tấm lòng vị tha của những con người nghèo khổ trên đất Mỹ nói riêng, trên mọi miền trái đất nói chung -Nghệ thuật chân chính phảihướng tới con người và vì con người. -VD: “Nhưng ô kìa!” “ngà hôm đó trôi qua kiểu Hà Lan” đ giúp người đoc thấy rõ thiên nhiên khắc nghiệt và chiếc lá cuối cùng đang héo tàn, theo quy luật tư nhiên nó sẽ rụng – là điều không thể tránh khỏi. Thấy được sự dũng cảm trường tồn của chiếc lá. -Sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ nhìn dây thường xuân đang rụng dần hết lá mà chẳng biết nói năng gì. -Khi nghe Giôn-xi ra lệnh kéo mành lên, Xiu làm theo một cách chán nản gần như tuyệt vọng. -Cố hết sức chăm sóc Giôn-xi: nấu cháo, pha sữa, mời bác sĩ Thể hiện tình yêu thương, chăm sóc Giôn-xi như đối với đứa em ruột thịt Lúc đầu Xiu không hề biết sự thật đó. vì vậy mà khi Giôn-xi bảo kéo mành lên, cô đã “làm theo một cách chán nản” sau đó còn “cúi khuôn mặt hốc hác” xuống người bệnh nói lời não nuột. -Tâm trạng ngạc nhiên không ngờ chiếc lá cuối cùng còn trên cành trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy. -Đó là tâm trạng của Giôn-xi và Xiu HS thảo luận: Có thể ngay khi kéo mành lên lần thứ nhất, cô đã đến đó xem thực hư ra sao và cô đã dấu sự thật đó với Giôn-xi. -Truyện sẽ bớt hấp dẫn vì Xiu không bị bất ngờ và không làm nổi bật được tâm trạng lo lắng thấm đượm tình yêu của xiu. Làm cho nhân vật trở nên tinh tế, vai trò người chị của Xiu càng thêm nổi bật. Giọng kể thủ thỉ, tâm tình như một làn hơi ấm, dịu dàng giữa đêm đông giá buốt _ Bị bệnh nặng, nghèo, mang tâm trạng yếu đối gần như bất lực trước bệnh tật. Cô chỉ trông đợi chiếc lá cuối cùng của cái dây leo già cỗi kia rụng xuống thì cô lìa đời _ Chán nản, mệt mỏi và tuyệt vọng buông xuôi I.Đọc – chú thích 1.Đọc 2.kể tóm tắt 3.Chú thích a. Tác giả (1862 – 1910) -Là nhà văn Mỹ chuyên viết truyện ngắn. b.Tác phẩm: - Vị trí đoạn trích: chiếm hẳn đoạn cuối tác phẩm. II.Tìm hiểu văn bản: 1.Kiệt tác của cụ Bơ-men. Chiếc lá cuối cùng được vẽ trong đêm mưa tuyết phũ phàng. -Thể hiện tình thương yêu bác là: - Đức hy sinh và lòng vị tha cao quý của cụ Bơ-men. - Bức vẽ là một kiệt tác, là một tác phẩm nghệ thuật hướng tới con người -Tác phẩm mang giá trị nhân văn lơn lao. 2.Tình yêu thương của Xiu. *Cách kể chuyện, ngắt đoạn, đảo ngược thời gian làm nổi bật vai trò người chị của Xiu với Giôn-xi: Giàu lòng yêu thương, có tấm lòng vị tha cao cả. 3.Diễn biến tâm trạng của Giôn-xi -Chán nản, mệt mỏi, tuyệt vọng, buông xuôi + Lúc nhìn thấy chiếc lá cuối cùng chưa rụng vào sáng hôm sau, Giôn-xi có tâm trạng như thế nào? +Lần thứ hai, khi trời vừa hửng sáng Giôn-xi lại kéo mành lên hành động đó thể hiện tâm trạng gì? +Khi thấy chiếc lá cuối cùng vẫn dai dẳng kiên cường chống chọi lại khắc nghiệt của thiên nhiên,Giôn-xi đã quyết định ra sao? +Nguyên nhân nào dẫn đến tâm trạng hồi sinh ở Giôn –xi? GV bình: Chiếc lá cuối cùng ấy đã đem lại nhiệt tình tuổi trẻ của Giôn-xi, trở lại cho cô, là phương thuốc màu nhiệm kỳ diệu. Nó như một tia lửa, một động lực làm phát sinh, nội lực giúp Giôn-xi thay đổi tâm trạng, có được tình yêu cộng sống và đấu trang để chiến thắng bệnh tật. +Tại sao nhà văn kết thúc truyên bằng lời kể của Xiu mà không để cho Giôn-xi phản ứng gì thêm + Truyên được kết thúc trên cơ sở 2 sự kiện bất ngờ đối lập nhau tạo nên hiện tượng đảo ngược tình huống 2 lần,em hãy chỉ rõ điều đó *Hoạt động 3: Hướng dẫn tìm hiểu ý nghĩa văn bản: +Từ sự phân tích trên, hãy khái quá lại nghệ thuật của văn bản +Những nghệ thuật đó có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung văn bản? Hoạt đông IV: Hướng dẫn củng cố luyện tập +Nếu được phép đặt tên cho tác phẩm, em sẽ chon nhan đề nào? vì sao +Vì sao OHen-ri lại đặt tên cho tác phẩm của mình là” chiếc lá cuối cùng “? +Hãy tưởng tượng ra sự phản ứng của Giôn-xi khi nghe Xiu kể về sự thật của chiếc lá cuối cùng và cái chết của cụ Bơ -men Từ sự tưởng tượng đó, em hãy viết lại phần kết truyện. +Bức tranh trong SGK minh hoạ cho cảnh nào của truyện? Nếu được vẽ tranh minh hoạ em sẽ chon cảnh nào? Hãy nêu ý tưởng ? +Yêu cầu HS về nhà học để nắm chắc nội dung nghệ thuậtcủa tác phẩm- chủ đề +Viết một đoạn văn tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm về một nhân vật yêu thích trong văn bản +Chuẩn bị tốt tiết Tiếng Việt và Tập Làm Văn tiết 31.32 -Ngạc nhiên nhưng rồi lại trở lại tâm trạng ban đầu -Tàn nhẫn, lạnh lùng thờ ơ với chính bản thân mình -Nhìn chiếc lá hồi lâu, cô gọi Xiu để tâm sự “ có cái gì đấymuốn chết là một tội.” -Thèm ăn cháo, uống sữa, ước mơ vẽ vịnh -Thuốc men, sự chăm sóc nhiệt tình của bạn, khâm phục sự gan góc kiên cường của chiếc lá. -Đó còn là quá trình đấu tranh của bản thân Giôn-Xi để chiến thắng cái chết -Kết thúc như vậy sẽ tạo cho truyện một dư âm như còn vương vấn để lại trong lòng người đọc nhiều suy nghĩvà dự đoán +Tình huống 1:Giôn-xi đang tiến dần đến cái chết cuối cùng đã chiến thắng bệnh tật trở lại yêu đời. -Tình huống 2: Cụ Bơ-men đang khoẻ mạnh đến cuối truyện thì lại qua đời -Nghệ thuật: Cách kể chuyện độc đáo nhiều tình tiết hấp dẫn, Sắp xếp chặt chẽ, khéo léo, kết cấu đảo ngược tình huống 2 lần, khắc hoạ rõ nét tâm lí hành động của nhân vật -Nội dung: Làm nổi bật chiếc lá dũng cảm và chân dung những con người nghèo khổ nhưng tình yeu thương thì bao la vô tận. -VD: “Kiệt tác của cụ Bơ- men” vì muốn đè cao nhân vật Bơ -men. Và tác phẩm nghệ thuật của cụ -HS tuỳ chọn miễn các em lí giải phù hợp -Vì” chiếc lá cuối cùng” có một vị trí quan trọng xuyên suet toàn bộ cốt truyện gây xúc động và nhên lên tình yêu sự sống đó là hình ảnh cảm động tận đáy lòng người và trở thành một biểu tượng nghệ thuật bất ngờ độc đáo mang ý nghĩa nhân văn, nhân bản sâu sắc -HS thảo luận nhóm, cử đại diện trình bày -Hoạt động cá nhân -Hoạt động nhóm -Yêu cầu1: HS phải làm rõ chủ đề: Bức thông điệp màu xanh về tình yêu thương con người, về quan điểm nghệ thật chân chính là phải hướng tới con người, phục vụ con người. -Yêu cầu 2:HS viết đoạn văn -Tàn nhẫn, lạnh ling, thờ ơ với chính bản thân mình -Khát khao được sống, được làm nghệ thuật 4.Đảo ngược tình huống 2 lần -Một cụ già đi từ sự sống đến cái chết để dẫn dắt một cô gái từ cái chết trở về sự sống III.Tổng kết Ghi nhớ /SGK-90 IV. Luyện tập 1.Chon nhan đề khác cho văn bản 2. Viết lại phần kết của truyện 3.Trình bầy ý tưởng vẽ tranh V.Bài tập về nhà IV Kết luận Việc đọc-hiểu văn bản’’ với biện pháp dạy học bằng hệ thống câu hỏi cảm thụ văn bản được thực hiện dưới hình thức đối thoại để đem lại những kết quả tương đối khả quan .Học sinh đã biết chọn đọc những đoạn văn bản minh hoạ cho các nhiện vụ học tập mọt các chính xác Học sinh có năng lực phán đoán nhanh nhạy nhưng ngữ liệu ngôn ngữ hiểu được mục đích của các văn bản .đạc biệt các em đã biết liên hệ giữa những điều có trong văn bản với thế giới bên ngoài .Trong những lời phát biểu những bài kiểm tra các em đã thực sự hiểu vàvận dụng tác phẩm một cách linh hoạt VBài học rút ra Để giờ học có hiệu quả trước hết người giáo viên phải nắm chắc các phương pháp’’Đọc –hiểu văn bản’’ Nghiên cứu , Nghị quyết Trung ương đã nhiều lần khẳng định “Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc họcáp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.” Qua việc học tập và nghiên cứu tôi đã nhận thấy việc đổi mới chương trình giáo dục hiện nay không chỉ là việc đổi mới chương trình sách giáo khoa mà thực sự là một cuộc cách mạng về phương pháp dạy học. Trong nhà trường hiện nay, mục tiêu giáo dục tổng quát đã được xác định tương đối phù hợp với sự phát triển của thời đại nhằm đào tạo những con người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo, có năng lực giải quyết mọi vấn đề thực tiễnMuốn đào tạo được những con người như vậy thì phương pháp giáo dục phải hướng vào khơi dậy, rèn luyện và phát triển khả năng nghĩ và làm một cách tự chủ, sáng tạo ngay trong học tập và lao động ở nhà trường. Bên cạnh đó , theo quan điểm giáo dục hiện nay là lấy người học làm trung tâm, phát huy vai trò chủ động tích cực của học sinh trong quá trình học tậpĐó là những mục tiêu và quan điểm chung trong nhà trường hiên nay. Ngoài những mục tiêu chung của nhà trường phổ thông , bộ môn Ngữ văn ở nhà trường THCS có mục tiêu cụ thể của nó. Môn Ngữ văn trước hết là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng tình cảm cho học sinh. Môn Ngữ văn còn là một môn học thuộc nhóm công cụ, vị trí đó nói lên mối quan hệ giữa môn Ngữ văn với các môn học khác. Học tốt môn Ngữ văn sẽ có tác động tích cựcđến kết quả học tập của các môn học khácvà ngược lại các môn học khác cũng có thể góp phần giúp học tốt môn Ngữ văn
Tài liệu đính kèm: