Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh nhận biết, phân biệt các hình thức văn nghị luận

Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh nhận biết, phân biệt các hình thức văn nghị luận

 A. ĐẶT VẤN ĐỀ.

 I. Lời nói đầu.

 Tích hợp là quan điểm cơ bản của việc đổi mới nội dung chương trình SGK và đổi mới phương pháp dạy học trong bộ môn Ngữ văn của nhiều năm nay. Trong chương trình SGK Ngữ văn THCS, các tác giả biên soạn đã thể hiện rất rõ quan điểm tích hợp này ở mọi hình thức: tích hợp ngang giữa các phân môn, tích hợp dọc, tích hợp đồng tâm Sự đổi mới này không chỉ giúp học sinh có được kiến thức tổng hợp mà còn có kỹ năng tốt hơn trong quá trình học và làm văn.

 Một trong những nhiệm vụ cơ bản của môn Ngữ văn ở trường phổ thông nóichung và ở trường THCS nói chung là phải giúp học sinh hình thành bốn kỹ năng cơ bản là: Nghe, nói, đọc, viết; trong đó kỹ năng viết có một vai trò vô cùng quan trọng. Nhiệm vụ hình thành kỹ năng viết chính là ở phân môn Tập làm văn, chính vì vậy chỉ riêng ở phần tập làm văn ở lớp 9, bên cạnh việc hướng dẫn các em viết những văn bản hành chính thông dụng như: Biên bản, Hợp đồng, Thư (điện) chúc mừng và thăm hỏi, sẽ đi sâu hơn vào ba kiểu văn bản Thuyết minh, Tự sự, Nghị luận, giúp các em biết sử dụng một số biện pháp nghệ thuật và yếu tố miêu tả trong văn bản thuyết minh, yếu tố miêu tả và nghị luận, đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự, phép phân tích và tổng hợp trong văn bản nghị luận. Về văn bản nghị luận, các em sẽ được tìm hiểu sâu hơn về hai hình thức thường gặp nhất là nghị luận xã hội, một hình thức trước đây chưa được chú ý đúng mức trong nhà trường và nghị luận văn học với hai dạng cụ thể là nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) và nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. Nhưng trong thực tế có thể khẳng định rằng thể loại văn nghị luận là một thể loại văn khá khó đối với học sinh THCS. Qua quá trình giảng dạy tôi nhận thấy rằng một bộ phận lớn học sinh chưa thực sự có kỹ năng xác định luận điểm, luận cứ; chưa xác định và phân biệt được các yêu cầu khác nhau của các hình thức văn nghị luận.

 

doc 15 trang Người đăng haiha30 Lượt xem 699Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh nhận biết, phân biệt các hình thức văn nghị luận", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 A. Đặt vấn đề.
 I. Lời nói đầu.
 Tích hợp là quan điểm cơ bản của việc đổi mới nội dung chương trình SGK và đổi mới phương pháp dạy học trong bộ môn Ngữ văn của nhiều năm nay. Trong chương trình SGK Ngữ văn THCS, các tác giả biên soạn đã thể hiện rất rõ quan điểm tích hợp này ở mọi hình thức: tích hợp ngang giữa các phân môn, tích hợp dọc, tích hợp đồng tâm Sự đổi mới này không chỉ giúp học sinh có được kiến thức tổng hợp mà còn có kỹ năng tốt hơn trong quá trình học và làm văn.
 Một trong những nhiệm vụ cơ bản của môn Ngữ văn ở trường phổ thông nóichung và ở trường THCS nói chung là phải giúp học sinh hình thành bốn kỹ năng cơ bản là: Nghe, nói, đọc, viết; trong đó kỹ năng viết có một vai trò vô cùng quan trọng. Nhiệm vụ hình thành kỹ năng viết chính là ở phân môn Tập làm văn, chính vì vậy chỉ riêng ở phần tập làm văn ở lớp 9, bên cạnh việc hướng dẫn các em viết những văn bản hành chính thông dụng như: Biên bản, Hợp đồng, Thư (điện) chúc mừng và thăm hỏi, sẽ đi sâu hơn vào ba kiểu văn bản Thuyết minh, Tự sự, Nghị luận, giúp các em biết sử dụng một số biện pháp nghệ thuật và yếu tố miêu tả trong văn bản thuyết minh, yếu tố miêu tả và nghị luận, đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự, phép phân tích và tổng hợp trong văn bản nghị luận. Về văn bản nghị luận, các em sẽ được tìm hiểu sâu hơn về hai hình thức thường gặp nhất là nghị luận xã hội, một hình thức trước đây chưa được chú ý đúng mức trong nhà trường và nghị luận văn học với hai dạng cụ thể là nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) và nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. Nhưng trong thực tế có thể khẳng định rằng thể loại văn nghị luận là một thể loại văn khá khó đối với học sinh THCS. Qua quá trình giảng dạy tôi nhận thấy rằng một bộ phận lớn học sinh chưa thực sự có kỹ năng xác định luận điểm, luận cứ; chưa xác định và phân biệt được các yêu cầu khác nhau của các hình thức văn nghị luận. 
 II.Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
 1.Thực trạng.
 Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường THCS , tôi nhân thấy 
 khi giảng dạy phân môn Tập làm văn và cụ thể là kiểu bài văn nghị luận đang tồn tại những vấn đề sau: 
 - Một bộ phận không nhỏ giáo viên vẫn quan niệm phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn nghị luận nói chung là một kiểu bài khó. Vì vậy khi giảng dạy chưa thật sự được chú trọng, thời lượng dành cho thực hành của phân môn này chưa thật sự được sử dụng có hiệu quả. Mỗi hình thức nghị luận đều có một tiết giành cho luyện nói, nhưng trên thực tế thì giờ luyện nói này chưa thật sự được sử dụng đúng với mục đích của giờ luyện nói.
 - Trong khi giảng dạy giáo viên chỉ chú ý đến nội dung bài học, miễn sao cung cấp đầy đủ cho học sinh dung lượng kiến thức trong sách giáo khoa mà ít chú trọng đến việc giúp các em hình thành kỹ năng nhận biết, phân biệt các hình thức nghị luận để qua đó các em có thể xác định ngay được nội dung yêu cầu của từng hình thức nghị luận để áp dụng vào bài văn nghị luận của mình.
 - Thực tế thì hiện nay ở trong nhà trường nói chung và riêng ở cấp THCS nói riêng vẫn còn một bộ phận lớn học sinh có thói quen thụ động, quen nghe, chép lại những gì giáo viên nói. Khi làm bài thì phụ thuộc hoàn toàn vào các tài liệu học tốt, bài văn mẫu lúc nào cũng có sẵn trên thị trường mà hàn toàn không có thói quen suy nghĩ khám phá và tự bộc lộ bản thân. 
 2.Kết quả của thực trạng trên.
 Từ những thực trạng như trên sẽ dẫn đến kết quả tất yếu là các em dần phụ thuộc hoàn toàn vào những tài liệu có sẵn, không chú trọng hoặc không còn hứng thú với môn học. Các em không còn khả năng nhận biết, phân biệt các hình thức nghị luận. Chính vì vậy mà các em sẽ không nắm được yêu cầu riêng, cụ thể của từng hình thức nghị luận, bài nghị luận của các em sẽ không có lập luận chặt chẽ, lô gích, thiếu tính thuyết phục.
 Qua khảo sát chất lượng ở hai lớp 9C, 9D tôi trực tiếp giảng dạy thông qua các bài viết, kết quả thu được là:
Lớp
Sĩ số
Kết quả đạt được
Gỏi
%
Khá
%
TB
%
Yếu
%
Kém
%
9C
38
1
2,6%
5
13,2%
24
63,2%
8
21%
0
0%
9D
40
1
2,5%
6
15%
24
60%
9
22,5%
0
0%
 Từ kết quả như trên, bằng kinh nghiệm giảng dạy thực tế của bản thân tôi đưa ra một vài biện pháp nho nhỏ để nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy và học các hình thức văn nghị luận ở trường THCS. 
B.Giải quyết vấn đề
 I. Các giải pháp thực hiện.
 1.Nghị luận là gì?
 Nghị luận nghĩa bàn và nhận định, đánh giá về một tình hình, một vấn đề nào đó(Từ điển Tiếng Việt).
 2. Phân loại:
 Có hai loại Nghị Luận:
 + Nghị luận chính tri, xã hội.
 + Nghị luận văn chương.
 Nghị luận về một sự việc hiện tượng trong đời sống xã hội là nghị luận chính trị, xã hội.
 Ví dụ: Bàn luận về " Không có gì quý hơn độc lập tự do" là nghị luận chính trị. Nghị luận về thói đố kị, lòng khoan dung, lòng nhân ái, tệ tham nhũng... là nghị luận xã hội. Nghị luận tục ngữ là nghị luận xã hội, như :"Uống nước nhớ nguồn"; "Tốt danh hơn lành áo", " Có công mài sắt có ngày nên kim", v.v..
 3.Thế nào gọi là văn nghị luận?
 Nghị luận là kiểu bài, là phương pháp nghị luận sử dụng thao tác bàn bac, phân tích giúp người đọc, người nghe hiểu đúng, hiểu sâu, hiểu rộng một vấn đề, chỉ rõ vấn đề ấy là đúng hay là sai, tốt hay xấu, cũ hay mới...đồng thời giúp người nghe, người đọc có thái độ đúng, hành động đúng đối với vấn đề đang nghị luận.
 Chính vì vậy, một bài nghị luận phải đạt được ba mục tiêu cụ thể như sau:
 - Một là, Phân biệt rõ đúng, sai, tốt, xấu, cũ mới... của vấn đề.
 - Hai là, mở rộng, khơi sâu tầm nhận thức, sự hiểu biết về vấn đề đó.
 - Ba là, xác định rõ thái độ, tình cảm, hành động đúng đắn khi đối diện với vấn đề ấy.
 4. Các thao tác nghị luận.
 Một bài nghị luận phải nâng vấn đề có ý nghĩa khái quát, có giá trị lý luận và thực tiễn trên cơ sở một quan điểm, một lập trường nhất định.
 Để đạt được ba mục tiêu của bài nghị luận, người viết phải sử dụng thao tác nghị luận kết hợp với thao tác giải thích và thao tác chứng minh.
 Muốn phân biệt vấn đề đúng hay sai, tốt hay xấu, cũ hay mới, ta phải giải thích, phải trả lời thoả đáng các câu hỏi: Nghĩa là gì? như thế nào? tại sao? Vì sao?
 Muốn mở rộng, khơi sâu tầm nhận thức, sự hiểu biết về vấn đề đó ta phải bàn luận, so sánh, đối chiếu lý luận với thực tế, nghĩa là ta phải bbình, phải luận kết hợp với chứng minh.
 Việc kết hợp thao tác, thao tác chứng minh với thao tác bình và luận trong một bài văn nghị luận mang tính tất yếu. Vì thế, một bài nghị luận nếu viết nông cạn chẳng khác gì một bài văn giải thích được thêm thắt một vài dẫn chứng.
 5.Ba bước của một bài văn nghị luận.
 Trong thân bài của bài nghị luận , cần lần lượt phát triển theo ba bước như sau:
 - Bước một, phải giải thích rõ vấn đề. Một từ ngữ khó, một khái niệm mới cần được giải thích rõ. Nghĩa đen, nghĩa bóng, ý nghĩa của vấn đề phải được giải thích cụ thể. Bước một giải thích này được coi như soi sáng vấn đề là bước rất cần thiết.
 - Bước hai, phải bình để chỉ rõ đúng sai, tốt xấu, cũ mới, của vấn đề. Tại sao đúng(sai)? Đúng sai như thế nào? Phải có lý lẽ trên một quan điểm lập trường nhất định. Phần bình thể hiện rõ cái yêu, cái ghét, sự tiến bộ hay lạc hậu, hạn chế về mặt nhận thức, về tư tưởng, tình cảm của người bình luận. Phần bình cần sự sắc sảo.
 - Bước ba, phải luận, nghĩa là phải bàn bạc, bàn luận, so sánh, đối chiếu khơi sâu, mở rộng vấn đề; đặt vấn đề trong nhiều mối tương quan về gia đình, xã hội, lịch sử, về lý luận, về thực tiễn để bàn luận cho thoả đáng. Bước ba của một bài văn nghị luận chính là nơi để phân biệt mức độ, chất lượng của trình độ của bài văn, của người viết.
 *Chú ý: Ba bước của một bài nghị luận cần rạch ròi trong nhận thức. Những bài nghị luận một câu tục ngữ, một câu ca dao, một ý kiến ngắn... thường thường ở thân bài nên tiến hành theo trình tự ba bước.
 Đối với những vấn đề bình luận về một vấn được trích dẫn trong một câu dài có nhiều vế, ta phải:
 - Có lúc gộp bước 2 và 3, kết hợp nghị luận trong từng vế.
 - Có lúc phải gộp cả ba bước trong từng vế cụ thể. 
 - Đọc các bài văn minh hoạ sẽ thấy rõ sự sáng tạo trong văn nghị luận phản ánh trí tuệ và độ thông minh, nhạy cảm của người học sinh.
 6.Dàn ý một bài văn nghị luận.
 a,Mở bài:
 Cần có hai nhân tố sau, gắn liền với nhau, hô ứng nhau: dẫn, nhập.
 - Dẫn: là dẫn dắt hướng về luận đề. Cần đúng hướng chưa vội nêu bật ý nghĩa của vấn đề. Có nhiều cách dẫn dắt như nêu xuất xứ của vấn đề, hoặc nêu hoàn cảnh( xã hội, lịch sử, nghệ thuật, học thuật... ) của vấn đề xuất, hiện, nảy sinh. Cũng có thể nêu mục đích của vấn đề phải nghị luận. Cũng có trường hợp sử dụng cách so sánh, nghi vấn hoặc tương phản, ...nói chung là cần biến hoá linh hoạt.
 - Nhập: là nhập đề. Dẫn với gắn liền với nhập như hình với bóng. Nhập tức là nêu vấn đề phải bình luận. Nếu danh ngôn, câu văn, câu thơ, ca dao, tục ngữ... được chỉ định trong đề bài, thì ta phải giới thiệu trích dẫn và đặt trong dấu ngoặc kép.
 - Mở bài bài văn nghị luận cần thể hiện một phong độ và sư sâu sắc.
 b,Thân bài: Có ba bước sau.
 - Bước 1: Phải giải thích vấn đề. Giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng, rút ra ý nghĩa của vấn đề. Tục ngữ, ca dao thì phải giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng. Câu văn, câu danh ngôn, câu thơ (Đặc biệt là thơ cổ)... thì ta phải giải thích từ khó, khái niệm, để từ đó tìm ra hàm nghĩa, nội dung ý nghĩa. Không thể đơn giản bước 1, nếu là nghị luận ca dao, tục ngữ, thơ văn cổ.
 - Bước 2: là bình.
 Nghĩa là phải khẳng định vấn đề đúng hay sai. Dùng lý lẽ để phân tích đúng sai của vấn dề. Chỉ ra được nguyên nhân: Tai sao đúng? Vì sao sai? Đúng sai như thế nào? Nếu thiếu lý lẽ hoặc lý lẽ nông cạn, nếu thiếu kiến thức hoặc hiểu biết lờ mờ, thì làm sao mà bình, mà khen mà chê được. Có lúc người viết phải sử dụng một vài dẫn chứng để minh hoạ cho cái sai, cái đúng của vấn đề. Quan điểm, lập trường nhận thức về tư tưởng, đạo đức, về hoạ thuật của người nghị luận thể hiện rõ ở phần này. Cần một cách viết sắc và gọn, linh hoạt. ít sử dụng câu dài. Tính chất tranh luận, tự biện được bộc lộ.
 - Bước 3: Luận.
 Luận là bàn bạc, bàn luận, mở rộng lật đi lật lại vấn đề, đối chiếu vấn đề ( Về các mặt lịch sử, xã hội, học thuật, về lý luận và thực tiễn, trong không gian, thời gian và các lĩnh vực....) Có lúc so sánh với các vấn đề tương quan, liên quan. Cũng có lúc đánh giá vấn đề, nêu bật tác dụng và tác hại, mặt tích cực hoặc hạn chế của vấn đề.
 Dây là phần hay nhất và cũng là phần khó nhất. Nó thể hiện độ sâu, rộng của bài nghị luận. Nếu bài nghị luận chỉ dừng lại ở bước 2 thì chẳng khác gì bài giải thích. 
 Chú ý:
 Ba bước của một bài văn nghị luận là những bước đi cơ bản, cần có và phải có. Học sinh cần định hình ba bước ấy. Làm văn nói chung, nghị luận nói riêng, cần phải căn cứ vào đề bài cụ thể, phân tích cụ thể để vận ... c tiểu chuẩn đúng.
 - Phân tích hay bình thơ thì phải chú ý chọn bình câu chữ, hình ảnh, nhịp điệu, cách gieo vần, cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật.
 - Để lời phân tích, đánh giá nhận xét thêm sâu sắc, người viết có thể viện dẫn ý kiến của người khác (thường là các nhà nghiên cứu, phê bình văn học). Đồng thời, trong khi phân tích, đánh giá đoạn thơ, bài thơ, nên tập thói quen sử dụng thao tác liên hệ, so sánh, đối chiếu với những câu thơ, đoạn thơ bài thơ khác cùng nội dung ý nghĩa, cùng đề tài (có thể cùng tác giả hoặc khác tác giả).
 c, Cách làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ.
 * Tìm hiểu đề và tìm ý: Cần đảm bảo các thao tác sau: 
 - Đọc kĩ đề, xác định yêu cầu của đề (Nghị luận về một đoạn thơ hay cả bài thơ? Nghị luận dưới dạng bình giảng hay phân tích?...).
 - Đọc kĩ đoạn thơ, bài thơ và tìm những thông tin có liên quan (về tác giả, về thời điểm và hoàn cảnh sáng tác).
 - Tìm những đoạn thơ, câu thơ, những hình ảnh thơ đặc sắc, tạo ấn tượng nhất trong bài, Xác định các yếu tố cơ bản trong nội dung của đoạn thơ, bài thơ. Trên cơ sở đó, hình thành những nhận xét, suy nghĩ chung nhất về bài thơ (ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu).
 * Lập dàn bài: Là quá trình sắp xếp những nhận xét, đánh giá của người viết thành một bố cục hoàn chỉnh.
 Phần mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đưa ra ý kiến khái quát nhất thể hiện cảm nhận và hiểu biết của mình về bài thơ. Đây là cách mở bài thông thường.
 Cũng có thể mở bài bằng nhiều cách khác: Chẳng hạn như bắt đầu giới thiệu từ đề tài (hoặc chủ đề) và vị trí của mảng đề tài (hoặc chủ đề) ấy trong dòng chảy văn học. Trên cơ sở dẫn ra tác phẩm và nêu nhận xét, đánh giá chung. Cũng có thể mở bài rất tự nhiên, nêu hoàn cảnh tiếp cận tác phẩm của mình, từ đó đưa ra những cảm nhận chung về đoạn, thơ bài thơ.
 Phần thân bài: Triển khai những cảm nhận, đánh giá về tác phẩm thành những luận điểm chính của bài văn. Các luận điểm được sắp xếp theo trình tự hợp lý (theo bố cục hoặc theo mạch cảm xục của tác giả); đồng thời phải được cụ thể hoá thành những luận cứ, trình bày bằng thao tác phân tích (hoặc bình giảng) có sự kết hợp với các phép lập luận chính của văn nghị luận: giải thích, chứng minh, bình luận.
 Phần kết bài: Tổng kết và khẳng định giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ; từ đó nhấn mạnh thêm ý nghĩa sâu sắc, lớn lao của bài thơ đối với sự nghiệp sáng tác của tác giả, đối với cuộc đời, đối với bạn đọc
 * Tổ chức và triển khai luận điểm.
 ở mỗi luận điểm (thường ứng với ít nhất một đoạn văn), người viết bài cần lựa chọn cách triển khai (theo phương pháp diễn dịch hoặc quy nạp). Trong đoạn văn triển khai luận điểm, các luận cứ phải cụ thể, rõ ràng. Có dẫn chứng minh hoạ sinh động. Mặt khác, lời văn phải thể hiện được cảm xúc chân thành của người viết đối với đối tượng nghị luận ( đan xen các yếu tố biểu cảm trong lời văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ).
 Trong quá trình triển khai luận điểm, cần lưu ý:
 - Việc trích dẫn thơ để minh hoạ cho ý kiến nhận xét, đánh giá phải có sự chọn lọc, tránh trích dẫn tràn lan.
 - Những câu thơ, đoạn thơ trích dẫn phải được phân tích, bình giảng để làm nổi bật cái hay cái đẹp, nét độc đáo của từng hình ảnh thơ. Có thể vận dụng hai hình thức trích dẫn thơ: dẫn trực tiếp (trích nguyên vẹn cả câu thơ, đoạn thơ) và dẫn gián tiếp (nêu ý của lời thơ).
 B. Bài tập vận dụng.
 a, Bài tập 1.
 * Đề bài: hiện nay có một hiện tượng khá phổ biến là có nhiều học sinh học qua loa , đối phó. Em hãy viết bài văn nêu suy nghĩ của mình về hiện tượng này. 
 - Với đề bài này học sinh cần xác định được các ý chính sau.
 1.Học qua loa : 
 + Học không có đầu có đuôi, không đến nơi đến chốn, cái gì cũng biết một tí nhưng không có kiến thức cơ bản, hệ thống .....
 + Học để khoe mẽ, nhưng thực ra đầu óc rỗng tuếch, không dám trình bày chính kiến của mình về các vấn đề có liên quan đến học thuật.
 2.Học đối phó : 
 - Là không lấy việc học làm mục đích, xem việc học là phụ.
 - Là học bị động, cốt đối phó với sự đòi hỏi của thầy cô, cha mẹ, thi cử .....
 - Học đối phó thì kiến thức nông cạn, hời hợt .... -> ngày càng dốt nát, hư hỏng, vừa lừa dối người khác, vừa tự đề cao mình -> nguyên nhân gây ra hiện tượng " tiến sĩ giấy " đang bị xã hội lên án gay gắt .
 * Bản chất của lối học đối phó và tác hại của nó: 
 - Bản chất: 
 + Có hình thức của học tập: cũng đến lớp, cũng đọc sách, cũng có điểm thi, cũng bằng cấp.
 + Không có thực chất: đầu óc rỗng tuếch, đến nổi " ăn không nên đọi nói không nên lời " hỏi gì cũng không biết làm việc gì cũng hỏng.
 - Tác hại : 
 + Đối với xã hội : những kẻ học đối phó sẽ trở thành gánh nặng lâu dài cho xã hội về nhiều mặt trong kinh tế, tư tưởng, đạo đức, lối sống .... 
 + Đối với bản thân: những kẻ học đối phó sẽ không có hứng thú học tập, do đó hiệu quả học tập ngày càng thấp.
 b,Bài tập 2: 
Đề bài:Tinh thần tự học.
1. Mở bài : 
Giới thiệu tinh thần tự học và nêu khái quát đặc điểm, vai trò của tinh thần tự học đối với học sinh.
2. Thân bài :
a, Giải thích :
- Tinh thần tự học là tinh thần tự giác học tập mà không cần sự nhắc nhở của thầy cô, cha mẹ.
- Tinh thần tự học còn thể hiện ở chỗ tự khám phá, chiếm lĩnh kiến thức của nhân loại qua sách vở, báo chí........ 
b, Đánh giá ý nghĩa của tự học :
- Tinh thần tự học thể hiện ý thức học tập cao của học sinh, thể hiện sự sáng tạo, ham hiểu biết, không ngừng vươn lên để chủ động tiếp thu những tri thức có ích, làm hành trang cần thiết để bước vào cuộc sống. Chỉ có nêu cao tinh thần tự học thì mới có thể nâng cao chất lượng học tập của mỗi người.
- Cần có phương pháp để tự học có hiệu quả :
+ Tự đề ra cho mình kế hoạch học tập hợp lí, phù hợp với việc học tập trên lớp.
+ Chủ động tìm sách vở, tư liệu tham khảo cho từng bộ môn được học trong nhà trường nhằm nâng cao vốn hiểu biết về bộ môn đó.
+ Tạo cho mình một thói quen ghi chép một cách khoa học những tri thức tiếp thu được qua sách vở, tài liệu hay các phương tiện truyền thông.
3 . Kết bài : 
- Tinh thần tự học là phẩm chất đáng quý đối với mỗi người, nhất là đối với học sinh.
- Cần phát huy tinh thần tự học để luôn tiếp cận được với những tri thức mới nhất của nhân loại.
 c,.Bài tập 3;
 Đề bài: Suy nghĩ của em về tình cảm cha con trong chiến tranh qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. 
 * Mở bài : 
 -Giới thiệu truyện ngắn " Chiếc lược ngà " với những nét nổi bật về nội dung và nghệ thuật.
 * Thân bài : 
 - Hoàn cảnh chiến tranh, ông Sáu đi chiến đấu xa nhà nên bé Thu hiếm khi gặp được cha.
 - Tình cảm cha con ông Sáu và bé Thu trải qua nhiều chịu đựng, thử thách, niềm tin , nghị lực.
 + Dù đã lâu không gặp nhau, nhưng khi cha trở về Thu nhất định không nhận cha -> ông Sáu rất buồn.
 + Sự mất mát tình cảm ấy là do chiến tranh . -> Ông lại phải lên đường để chiến đấu.
 + ở chiến khu niềm thương con, tình cha con là nguồn động viên tiếp thêm niềm tin cho ông Sáu.
 + Bé Thu với tình yêu cha -> tiếp nối con đường mà cha đã lựa chọn.
 - Tình cảm cha con biểu hiện ở từng nhân vật. 
 - Một số nét tiêu biểu về nghệ thuật: 
 + Tình huống éo le, thử thách.
 + Chi tiết đặc sắc.
 + Ngời kể chuyện.
 * Kết bài : 
 - Tình cảm cha con sâu sắc, cảm động của ông Sáu và bé Thu là nét ấn tượng nổi bật nhất của truyện.
 d,Bài tập 4:
 Đề bài: Bếp lửa sưởi ấm một đời - Bàn về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt.
 1 . Mở bài : 
Giới thiệu bài thơ " Bếp lửa " của Bằng Việt và hình ảnh sáng tạo tiêu biểu, đặc sắc nhất của bài thơ: Hình ảnh bếp lửa. 
2 . Thân bài : - Hình ảnh bếp lửa gắn với thời kỳ kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta. Đối với nhà thơ, bếp lửa gợi nhớ những kỉ niệm tuổi ấu thơ sống trong tình yêu thương chăm sóc, ân cần của bà. Chú ý khai thác các từ : " Chờn vờn " " ấp iu " ....
- Hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà gợi lên lòng kính yêu , trân trọng , biết ơn của cháu đối với bà.
- Từ tình cảm gia đình, bài thơ đã thể hiện tình yêu quê hương, đất nước. Tình cảm kính yêu, biết ơn đối với bà gắn liền với tình cảm yêu mến, tự hào về quê hương, đất nước. Do đó tinh thần chiến đấu của người cháu xuất phát từ tình yêu bà và tình yêu xóm làng. 
3 . Kết bài : 
Hình ảnh " Bếp lửa " là một sáng tạo độc đáo của nhà thơ. Qua đó nhà thơ thể hiện tình cảm kính yêu, biết ơn đối với người bà đã hi sinh cả đời vì con cháu.
c. Kết luận.
 1. Kết quả nghiên cứu.
 Được sự đồng ý của BGH nhà trường, tổ chuyên môn, sự đóng góp ý kiến của bạn bè đồng nghiệp. Tôi đã mạnh dạn áp dụng đề tài này vào việc giảng dạy ở hai lớp 9C, 9D. Sau một thời gian đã đạt được những kết quả nhất định. Từ chỗ một bộ phận lớn học sinh ở hai lớp này rất lúng túng khi tiếp cận với thể loại văn nghị luận, chưa có kỹ năng về làm bài văn nghị luận, chưa phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa các hình thức nghị luận, việc xác định yêu cầu của từng hình thức nghị luận (đây là một khâu vô cùng quan trọng trong viết bài văn nghị luận) còn gặp nhiều khó khăn. Thì đến nay về cơ bản đa số các em đã hiểu rõ được bản chất của thể loại văn nghị luận, biết phân biệt được các yêu cầu khác nhau của từng hình thức nghị luận. Chính vì vậy hiệu quả bài viết thực hành của các em đã được nâng lên một bước rõ rệt. Sự lầm lẫn giữa các hình thức đã được hạn chế tối đa, đa số bài viết của đã có lập luận rõ ràng, lô gích chặt chẽ. Việc xác định, sắp xếp các luận điểm, luận cứ đã có những tiến bộ rõ rệt. Kết quả cụ thể như sau:
Lớp
Sĩ số
Kết quả đạt được
Gỏi
%
Khá
%
TB
%
Yếu
%
Kém
%
9C
38
3
7,9%
8
21%
25
65,8%
2
5,3%
0
0%
9D
40
4
10%
10
25%
24
60%
2
5%
0
0%
 2. Kiến nghị, đề xuất.
 Dạy học văn quả thật là rất khó, dạy học phân môn Tập làm văn lại càng khó hơn, đặc biệt là dạy phần văn nghị luận. Nói như vậy không phải để nâng cao vấn đề mà đây là một thực tế ở nhà trường phổ thông. Tuy nhiên mọi vấn đề dù khó đến đâu cũng có cách giải quyết của nó nếu chúng ta có quyết tâm và lòng yêu nghề. Qua đề tài bằng những kết quả đã đạt được, tôi mong rằng sẽ đóng góp được một phần nhỏ bé vào việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn ở trường THCS . Vì thời gian nghiên cứu và áp dụng chưa được nhiều, bản thân kinh nghiệm cũng chưa có được là bao cho nên khi tiến hành thực hiện đề tài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến chân tình của bạn bè đồng nghiệp để đề tài của tôi ngày càng được hoàn thiện hơn. 
 Tôi Xin chân thành cảm ơn!
 Xuân Tín, ngày 30 tháng 03 năm 2009
 Người thực hiện
 Lê Đức Tĩnh
Tài liệu tham khảo
SGK, SGV Ngữ văn 9, tập1, 2.
 Nâng cao Ngữ văn 9 THCS – Tạ Đức Hiền- Nhà xuất bản Hà Nội.
Một số kiến thức – kỹ năng và bài tập nâng cao Ngữ văn 9- Nguyễn Thị Mai Hoa- Nhà xuất bản giáo dục.

Tài liệu đính kèm:

  • docSang kien kinh nghiem(11).doc