Ôn tập hè Môn Ngữ văn 8

Ôn tập hè Môn Ngữ văn 8

Bài 1

TÍNH THỐNG NHẤT VỀ CHỦ ĐỀ CỦA VĂN BẢN

& BỐ CỤC VĂN BẢN

I- Tính thống nhất về chủ đề của văn bản

- Chủ đề là đối tượng mà văn bản biểu đạt, là tư tưởng, tình cảm thể hiện trong văn bản.

Ví dụ: Chủ đề bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh là: Tình yêu gia đình và quê hương dào dạt trong tâm hồn người lính trẻ trên đường hành quân ra trận thời đánh Mĩ.

- Tính thống nhất về chủ đề của văn bản:

Nếu các câu thơ, đoạn thơ, đoạn văn, các tình tiết. là xương thịt của tác phẩm, thì chủ đề là linh hồn của bài thơ, của truyện. Nếu không nắm được toàn bộ các chi tiết của văn bản thì khó hình dung được chủ đề, tính tư tưởng của tác phẩm. Các chi tiết bộ phận của tác phẩm liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành chủ đề. Tựa như nền, móng, cột kèo, xà, tường, nóc, ngói, tranh hợp thành mới ra cái nhà.

Như vậy, Tính thống nhất về chủ đề của văn bản là sự liên kết chặt chẽ, sự hòa hợp gắn bó của các bộ phận tác phẩm như nhan đề, lời đề từ (nếu có), từ ngữ hình tượng, giọng điệu (thơ), cốt truyện, nhân vật, diễn biến, câu trữ tình ngoại đề (nếu có) tạo thành một chỉnh thể. Sự thừa, thiếu trong tác phẩm là hiện tượng biểu lộ sự non yếu của tác giả đã phá vỡ tính thống nhất của chủ đề.

 

doc 21 trang Người đăng haiha30 Lượt xem 819Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Ôn tập hè Môn Ngữ văn 8", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 1
TÍNH THỐNG NHẤT VỀ CHỦ ĐỀ CỦA VĂN BẢN
& BỐ CỤC VĂN BẢN
I- Tính thống nhất về chủ đề của văn bản
- Chủ đề là đối tượng mà văn bản biểu đạt, là tư tưởng, tình cảm thể hiện trong văn bản.
Ví dụ: Chủ đề bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh là: Tình yêu gia đình và quê hương dào dạt trong tâm hồn người lính trẻ trên đường hành quân ra trận thời đánh Mĩ.
- Tính thống nhất về chủ đề của văn bản:
Nếu các câu thơ, đoạn thơ, đoạn văn, các tình tiết.. là xương thịt của tác phẩm, thì chủ đề là linh hồn của bài thơ, của truyện. Nếu không nắm được toàn bộ các chi tiết của văn bản thì khó hình dung được chủ đề, tính tư tưởng của tác phẩm. Các chi tiết bộ phận của tác phẩm liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành chủ đề. Tựa như nền, móng, cột kèo, xà, tường, nóc, ngói, tranh hợp thành mới ra cái nhà.
Như vậy, Tính thống nhất về chủ đề của văn bản là sự liên kết chặt chẽ, sự hòa hợp gắn bó của các bộ phận tác phẩm như nhan đề, lời đề từ (nếu có), từ ngữ hình tượng, giọng điệu (thơ), cốt truyện, nhân vật, diễn biến, câu trữ tình ngoại đề (nếu có) tạo thành một chỉnh thể. Sự thừa, thiếu trong tác phẩm là hiện tượng biểu lộ sự non yếu của tác giả đã phá vỡ tính thống nhất của chủ đề.
Ví dụ: Truyện ngắn “cuộc chia tay của những con búp bê” của Khánh Hoài, từ nhan đề đến cốt truyện, các tình tiết đều mang tính liên kết khá chặt chẽ:
- Thuỷ và Thành đau khổ khóc suốt đêm
- Sáng sớm Thành đau buồn đi ra vườn ngồi một mình, thì em gái theo ra.
- Hai anh em chia đồ chơi
- Thành dẫn Thuỷ về trường cũ, chào giã biệt cô giáo Tâm và các bạn lớp 4B.
- Trước lúc lên xe, Thuỷ để lại cho anh trai cả hai con búp bê. Thành nhìn theo bóng em gái rối khóc.
ð Qua đó, ta rút ra chủ đề của truyện là: 
- Sự đau khổ của tuổi thơ trước bi kịch gia đình (cha mẹ bỏ nhau)
- Tình thương yêu của anh em, của bè bạn trong bi kịch gia đình.
II- Bố cục của văn bản
1. Bố cục của văn bản là sự tổ chức các đoạn văn để thể hiện chủ đề. Văn bản thường có bố cục 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài
+ Phần mở bài có nhiệm vụ nêu ra chủ đề của văn bản. 
+ Phần thân bài thường có một số đoạn nhỏ trình bày các khía cạnh của chủ đề. 
+ Phần kết bài tổng kết chủ đề của văn bản.
Cụ thể:
a) Văn miêu tả
- Mở bài: giới thiệu chung về ấn tượng cảm xúc đối với cảnh vật
- Thân bài: tả từng phiên cảnh cụ thể, tả khái quát toàn cảnh
- Kết bài: Nêu cảm xúc, ý nghĩ
b) Văn tự sự
- Mở bài: giới thiệu câu chuyện
- Thân bài: kể diễn biến câu chuyện
- Kết bài: kết cục câu chuyện, hoặc nói lên suy nghĩ, cảm nghĩ
c) Văn nghị luận
- Mở bài: Nêu vấn đề
- Thân bài: Giải quyết vấn đề. Có thể lần lượt dùng lí lẽ hoặc dẫn chứng để giải thích, hay chứng minh, hay bình luận từng luận điểm, từng khía cạnh của vấn đề
- Kết bài: Khẳng định vấn đề; liên hệ, nêu cảm nghĩ
Bài “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” của Hồ Chí Minh
- Mở bài: Tác giả nêu vấn đề: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước”. Đó là một truyền thống quý báu, có sức mạnh vô địch để chiến thắng thù trong, giặc ngoài.
- Thân bài: Tác giả chứng minh tinh thần yêu nước của nhân dân ta
+ Những trang sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung
+ Tinh thần yêu nước của nhân dân ta được thể hiện trong cuộc kháng chiến chống Pháp: đủ các lứa tuổi, các thành phần giai cấp, tôn giáo, khắp mọi miền đất nước (miền ngược, miền xuôi, tiền tuyến, hậu phương, những hành động yêu nước)
- Kết bài: Nêu lên nhiệm vụ của toàn dân là phải phát huy tinh thần yêu nước để kháng chiến và kiến quốc.
2. Cách bố trí, sắp xếp nội dung phần thân bài
Nội dung phần thân bài thường được trình bày theo một thứ tự tuỳ thuộc vào kiểu văn bản, chủ đề, ý đồ giao tiếp của người viết. Nhìn chung, nội dung ấy thường được sắp xếp theo trình tự thời gian và không gian, theo sự phát triển của sự việc hay theo mạch suy luận, sao cho phù hợp với sự triển khai chủ đề và sự tiếp nhận của người đọc. Thân bài là phần chính trung tâm, phần trọng tâm của bài văn, của văn bản. Mỗi loại văn bản ở phần thân bài có cách bố trí, sắp xếp nội dung khác nhau.
a) Thân bài của bài văn miêu tả: có thể sắp xếp bố trí từ cảnh này đến cảnh khác, từ bộ phận này đến bộ phận khác theo thời gian và không gian, có cảnh chính và cảnh phụ.
b) Thân bài của bài văn tự sự: có thể sắp xếp, bố trí các tình tiết, các sự việc, các nhân vật nối tiếp hoặc xen kẽ nhau xuất hiện theo diễn biến tự nhiên của câu chuyện. 
Ví dụ: Truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng” có 5 tình tiết sau hình thành cốt truyện và diễn biến câu chuyện:
- Mụ vợ ông lão đánh cá bảo chồng ra biển xin con cá vàng một cái máng lợn
- Mụ vợ sai chồng ra biển xin con cá vàng cho mụ một cái nhà mới
- Mụ vợ bắt chồng đi gặp con cá vàng xin cho mụ làm nhất phẩm phu nhân
- Mụ vợ bắt chồng đòi cá vàng để mụ được làm nữ hoàng
- Mụ vợ ông lão đánh cá đòi được làm Long Vương ngự trên mặt biển
c) Thân bài văn nghị luận: chất liệu làm nên bài văn nghị luận là lí lẽ, dẫn chứng và cách lập luận. Thân bài của một bài văn nghị luận là hệ thống các luận điểm, luận cứ. Qua các luận điểm, luận cứ, người viết dùng lí lẽ, dẫn chứng để giải thích, chứng minh, bình luận để làm nổi bật luận đề (vấn đề đã nêu ra)
Ví dụ: Trong bài “Thế nào là học tốt”, ông Trường Chinh đã nêu lên 4 căn cứ, 4 luận điểm sau: 
- Học tốt trước hết là học sinh phải đi học cho đều, chăm chú nghe giảng
- Hai là học phải gắn với hành, với lao động.
- Ba là học sinh phải chăm lo học tập và rèn luyện về các mặt trí dục, đức dục, mĩ dục, thể dục để phát triển toàn diện con người mới xã hội chủ nghĩa
- Bốn là, học sinh phải kính trọng thầy, cùng gánh trách nhiệm với thầy trong việc xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa.
III- Xây dựng đoạn văn trong văn bản.
1. Đoạn văn là gì? 
Một văn bản gồm có nhiều đoạn văn hợp thành. Vậy, đoạn văn là một phần của văn bản. Đoạn văn do một câu văn hoặc một số câu văn tạo thành. Đoạn văn biểu đạt một ý tương đối trọn vẹn của văn bản. Về hình thức, chữ đầu đoạn văn phải viết hoa, lùi vào độ một ô tính từ lề. Kết thúc đoạn văn bằng dấu chấm xuống dòng. 
2. Câu chủ đề của đoạn văn
Câu chủ đề (còn gọi là câu chốt) mang nội dung khái quát lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính C - V; nó có thể đứng đầu đoạn văn (đoạn diễn dịch) cũng có thể đứng cuối đoạn (đoạn quy nạp)
3. Quan hệ giữa các câu trong đoạn văn
Trong một đoạn văn các câu có quan hệ ý nghĩa chặt chẽ với nhau. Có thể bổ sung ý nghĩa cho nhau; có thể liên kết, phối hợp với nhau về ý nghĩa.
4. Cách trình bày nội dung trong đoạn văn: 
- Dựng đoạn diễn dịch: Là cách thức trình bày ý đi từ ý chung, khái quát đến các ý cụ thể chi tiết. Đoạn diễn dịch thì câu chốt đứng đầu đoạn, các câu đi kèm sau nhằm minh họa cho câu chốt.
VD: Em rất kính yêu mẹ. Bố thì nghiêm, mẹ thì hiền. Mẹ giống bà ngoại, từ nét mặt, nụ cười đôn hậu đến đôi bàn tay nhỏ nhắn, khéo léo. Mẹ đã về hưu được vài năm nay. Mẹ thức khuya, dậy sớm lo cho các con được ăn ngon, mặc đẹp, được học hành giỏi giang. Đứa con nào bị ốm, mẹ thở dài lo lắng, chăm sóc từng viên thuốc, từng bát cháo Mẹ luôn dặn các con: “nhà ta còn khó khăn, các con phải ngoan và chăm chỉ học hành”. Mỗi lần đi xa một hai ngày, em nhớ mẹ lắm!
- Dựng đoạn quy nạp: Là cách trình bày nội dung đi từ các ý chi tiết, cụ thể đến ý chung khái quát. Trong đoạn quy nạp, các câu mang ý chi tiết, cụ thể đứng trước, câu chủ đề đứng cuối đoạn.
Chú ý: đoạn diễn dịch có thể đảo lại thành đoạn quy nạp, hoặc ngược lại
Ví dụ: Tình bạn phải chân thành, tôn trọng nhau, hết lòng yêu thương, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Lúc vui, lúc buồn, khi thành đạt, khi khó khăn, bạn bè phải san sẻ cùng nhau. Có bạn chí thiết, có bạn tri âm, tri kỉ Nhân dân ta có nhiều câu tục ngữ rất hay nói về tình bạn như : “Giàu vì bạn, sang vì vợ” hay “Học thầy không tày học bạn”, nhà thơ Nguyễn Khuyến có bài “Bạn đến chơi nhà” được nhiều người yêu thích. Trong đời người, hầu như ai cũng có bạn. Bạn học thời tuổi thơ, thời cắp sách là trong sáng nhất, hồn nhiên nhất. Thật vậy, tình bạn là một trong những tình cảm cao đẹp của chúng ta.
- Dựng đoạn song hành: Là đoạn văn được sắp xếp các ý ngang nhau, bổ sung cho nhau, phối hợp nhau để diễn tả ý chung. Đoạn song hành không có câu chủ đề.
VD: Đi giữa Hạ Long vào mùa sương, ta cảm thấy những hòn đảo vừa xa lạ, vừa quen thuộc, mờ mờ, ảo ảo. Chung quanh ta, sương buông trắng xóa. Còn thuyền bơi trong sương như bơi trong mây. Tiếng sóng vỗ loong boong trên mạn thuyền. Tiếng gõ thuyền lộc ộc của bạn chài săn cá, âm vang mặt vịnh. Thỉnh thoảng mấy con hải âu đột ngột hiện ra trong màn sương.
	(Vịnh Hạ Long)
- Dựng đoạn móc xích: là đoạn văn trong đó cách sắp xếp ý nọ tiếp theo ý kia theo lối móc nối vào ý trước (qua những từ ngữ cụ thể) để bổ sung, giải thích cho ý trước.
Ví dụ: Muốn xây dưng chủ nghĩa xã hội thì phải tăng gia sản xuất. Muốn tăng gia sản xuất tốt thì phải có kĩ thuật cải tiến. Muốn sử dụng tốt kĩ thuật cải tiến thì phải có văn hoá. Vậy, việc bổ túc văn hoá là cực kì cần thiết.
BÀI TẬP
Bài 1: Hãy nêu xuất xứ, chủ đề của truyện ngắn “tôi đi học” của Thanh Tịnh? và chỉ ra tính thống nhất về chủ đề của văn bản đó?
Bài 2: Chỉ ra bố cục của câu chuyện: Con chim hồng
Một người đi săn ở Thiên Tân đem bẫy vào rừng đánh bắt được một con chim hồng mái rất đẹp. Bỏ chim vào lồng, đem về. Con chim trống cứ bay theo, cất tiếng kêu rất ai oán. Con trống bay theo về tận nhà người đi săn, kêu khóc như van xin cho đến tối mịt mới chịu bay đi. 
Mờ sáng hôm sau, người đi săn dậy mở cửa đã nhìn thấy con chim trống đậu trước sân. Chim vẫy cánh nhịp nhàng như có ý ra hiệu gì. Người đi săn lại gần định bắt lấy cho được cả đôi. Chim trống vươn cao cổ, nhả ra một cục vàng rất to, sáng lấp lánh. Người đi săn chợt hiểu, hỏi: “muốn chuộc vợ sao?” Bèn thả con chim mái ra. Đôi chim mừng mừng tủi tủi, quanh quẩn mãi, chưa nỡ bay đi.
Người đi săn cân vàng. Được hai lạng sáu đồng cân. Cầm cục vàng trên tay, anh ta xúc động nghĩ: “Cầm thú không biết gì mà còn chung tình thế? Có nỗi buồn nào bằng nỗi buồn của đôi lứa phải chia li. Loài cầm thú cũng thế ư?..”
	 (Theo “Liêu trai chí dị”)
Bài 3: Cho các đoạn văn sau, chỉ ra phương pháp trình bày nội dung ở mỗi đoạn văn.
a) Dạy văn chương ở phổ thông có nhiều mục đích. Trước hết, nó tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc với một loại sản phẩm đặc biệt của con người, kết quả của một thứ lao động đặc thù - lao động nghệ thuật. Đồng thời, dạy văn chương chính là hình thức quan trọng giúp các em hiểu biết, nắm vững và sử dụng tiếng mẹ đẻ cho đúng, cho hay. Dạy văn chương cũng là một trong những con đường của giáo dục thẩm mĩ.
b) Những cách chống nạn đói chia ra làm mấy hạng: như cấm nấu rượu bằng gạo hay bắp, cấm các thứ bánh ngọt để cho đỡ tốn ngũ cốc. Như vùng này san sẻ thức ăn cho vùng khác, đỡ đầu cho các vùng khác. Như ra sức tăng ... huyết minh
- Phải quan sát, tìm hiểu kĩ lưỡng, chính xác đối tượng cần thuyết minh, nhất là phải nắm bắt được bản chất, đặc trưng của chúng, để tránh sa vào trình bầy các biểu hiện không phải tiêu biểu, không quan trọng. 
- Phải sử dụng ngôn ngữ chính xác, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc
2. Phương pháp
Để bài văn thuyết minh có sức thuyết phục, dễ hiểu, sáng rõ, người ta có thể sử dụng phối hợp nhiều phương pháp thuyết minh như : nêu định nghĩa, mô tả sự vật, sự việc, nêu ví dụ, liệt kê, so sánh, đối chiếu phân tích, phân loại, dùng số liệu, nói vừa phải, tránh đại ngôn
IV- Cách làm bài văn thuyết minh
1. Phải tìm hiểu đề bài, nhằm xác định đối tượng sẽ thuyết minh
2. Tiếp theo, người làm bài phải tìm các tri thức khách quan, khoa học về đối tượng thuyết minh (có thể đến tận nơi quan sát, tìm hiểu kĩ lưỡng, chính xác, ghi chép lại) hoặc tìm đọc ở sách báo các kiến thức tin cậy về đối tượng thuyết minh
3. Tiếp theo nữa, sau khi có kiến thức rồi, cần tìm một hướng trình bày theo một trình tự thích hợp với đối tượng cần thuyết minh, sao cho người đọc dễ hiểu
Ví dụ: Nếu thuyết minh về chiếc xe đạp có thể đi từ bộ phận quan trọng, đến không quan trọng, đến tác dụng của xe đạp với người sử dụng
Nếu thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam cần đi theo trình tự từ nguồn gốc, cách làm nón, các kiểu dáng nón, tác dụng khi con người sử dụng
4. Khi làm văn thuyết minh, chú ý sử dụng ngôn ngữ chính xác, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc. Chú ý “chất văn” phù hợp với văn thuyết minh.
BÀI TẬP
Bài tập 1: Hai văn bản sau có phải là văn bản thuyết minh không? Hãy đặt tên cho các văn bản ấy? 
Văn bản 1: Ở nước ta, tiền giấy được phát hành lần đầu tiên dưới thời nhà Hồ (1400 - 1407) nhưng chỉ tồn tại trong thời gian rất ngắn. Sau khi Pháp xâm chiếm Việt Nam, ngân hàng Đông Dương ra đời năm 1875 và tiền giấy bắt đầu được phát hành ở Nam Kì và Hải Phòng vào khoảng những năm 1891 - 1892. Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, ngày 31 - 1 - 1946, Chính Phủ đã kí nghị định phát hành tiền giấy Việt Nam và đến ngày 30 - 11 - 1946 tờ giấy bạc đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Ngày 5-6-1951, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập và phát hành loại tiền giấy mới. Từ đó đến nay, nước ta đã trải qua hai lần đổi tiền (1959 và 1985) và một lần thống nhất tiền tệ hai miền Nam Bắc theo loại tiền mới (1978)
Văn bản 2: Cá đuối thường sống ở vùng biển nhiệt đới. Thân hình chúng nom dẹt và mỏng, do hai vây ngực rộng và phẳng ở hai bên, gắn liền với thân. Khi cá bơi, các vây ngực mềm này chuyển động lên xuống trong nước trông rất đẹp. Cá đuối màu xanh sẫm, nhưng cũng có loài đuối lưng có những đốm màu trắng nom rất nổi bật. Chiếc đuôi dài giúp cá đuối giữ thăng bằng dưới nước. Tuy nhiên, đuôi cá đuối có nọc độc, có thể châm đốt gây nguy hiểm cho người và các động vật khác. Cá đuối thích sống thành từng đàn. Người ta có khi nhìn thấy bầy cá đuối ba đến bốn con bơi cạnh nhau. Chúng cũng rất thích nhảy múa nữa. Lúc “cao hứng”, cá đuối còn nhảy vọt lên trên mặt nước, cao đến vài mét. Song, cá đuối cũng biết giấu mình dưới cát để tránh kẻ thù. 
Gợi ý: Cả hai văn bản trên đều là văn bản thuyết minh
Văn bản 1: Thuyết minh về tiền giấy Việt Nam
Văn bản 2: Loài cá đuối ở vùng biển nhiệt đới.
Tham khảo ví dụ trong sách trên (như mục III)
Bài tập 2: Đọc các đoạn văn thuyết minh sau và cho biết người viết đã phải huy động kiến thức gì và sử dụng những phương pháp thuyết minh nào? 
1. Dơi là động vật ngủ đông. Vì thế ta thường bắt gặp chúng vào mùa hè. “Nhà” của dơi là những nơi tối ẩm như vách đá, hang động, đặc biệt là trong những thân cây lớn đã chết. Ở nơi có dân cư, dơi thường trú trên mái nhà, vách tường ẩm và không có ánh sáng”
	(Theo Thanh Huyền - Báo Họa mi)
2. Hiện nay, cứ 8 người Mĩ, có một người ở độ tuổi 65 hoặc cao hơn. Tới năm 2005, con số đó là 4 người. Nhóm người ở độ tuổi 75 trở lên ngày càng đông. Điều đó, chứng tỏ: người Mĩ ngày càng sống lâu hơn, có tuổi thọ cao hơn.
	(Theo 365 lời khuyên về sức khoẻ)
Gợi ý: 
a. Kiến thức sinh học
2. Kiến thức về sức khoẻ đời sống
Bài tập 3: Lập dàn ý nói cho đề bài sau: 
“Thuyết minh về một con vật nuôi mà em yêu thích (chó, mèo, thỏ, gà...)
* Dàn ý nói thuyết minh về mèo:
1. Mèo là động vật bốn chân thuộc lớp thú, mình nó khoác một bộ lông dày mượt mà. Bộ lông ấy có thể màu đen trắng (mèo khoang), có thể màu tro (mèo mướp) và cũng có khi là ba màu khác nhua (mèo tam thể)
 2. Mèo nhà em có bộ ria mép dài, trắng như cước, nói chính là trợ thủ giúp mèo bắt chuột trong đêm. 
3. Khi mọi người đi ngủ, màn đêm buông xuống là lúc mèo bắt đầu hoạt động.
4. Ngoài bộ ria nhạy bén, tai và mũi mèo cũng góp phần quan trọng, đặc biệt là tai mèo nghe được mọi cử động của chuột.
5. Mèo chuyển động nhẹ nhàng; sinh con, nuôi con rất khéo. Nó thể hiện rõ nét về tình mẫu tử.
6. Em thích con mèo nhà em. Tên nó chính là “Miu”
* Dàn ý thuyết minh về chó:
1. Chó là loài động vật rất có ích cho đời sống con người, còn gọi là "linh cẩu". 
2. Chó là loài động vật rất trung thành, dễ gần và là bạn của con người.
3. Chó có nhiều loại, nhiều giống khác nhau
4. Đặc điểm chung của chúng :
- Là loại động vật có bốn chân, mỗi bàn chân đều có móng vuốt sắc, nhưng khi hoạt động (đi lại) thì cụp vào.
- Não chó rất phát triển, tai và mắt rất tinh vào ban đêm, có khả năng đánh hơi rất tài.
- Chúng thường nặng từ 15 - 20 kg, tuổi thọ trung bình từ 16 - 18 năm
- Hiện nay chó làm được rất nhiều việc giúp con người như trinh thám, cứu hộ
5. Em rất yêu con chó mà nhà em đang nuôi, em gọi nó là Lu.
* Thuyết minh về con trâu
Con trâu là vật nuôi đứng đầu hàng lục súc. Hầu như em bé Việt Nam nào cũng thuộc bài ca dao :
"Trâu ơi, ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta"
Con trâu là biểu tượng cho những đức tính như hiền lành, cần cù, chịu khó Nó là cánh tay phải, là tài sản vô giá của người nông dân Việt Nam: "Con trâu là đầu cơ nghiệp"
Mỗi con trâu có thể nặng trên dưới ba tạ. Da trâu đen bóng, lông lưa thưa. Chiếc đuôi dài khoảng một mét, có chùm lông dài và mượt, lúc nào cũng đập qua đập lại để đuổi muỗi, đuổi ruồi. Bốn chân trâu to và dài, bàn chân có móng gân guốc to, dày và nhọn. Hai chiếc sừng nhọn hoắt, uốn cong rất đẹp. Ở Đồ Sơn, Hải Phòng có lễ chọi trâu:
"Dù ai buôn đâu bán đâu
Mồng mười tháng tám, chọi trâu thì về"
Mắt trâu lồi to rất ưa nhìn. Bụng trâu khá to; có phải vì thế mà trâu bước đi chậm chạp? Trâu là loài nhai lại, nó chỉ có một hàm răng (hàm dưới). Trâu rất dễ nuôi. Thức ăn chính là cỏ tươi. Trâu cũng biết ăn rơm, ăn cám. Phân trâu màu đen, dùng để bón cây, bón lúa rất tốt. 
Trâu chịu rét kém, nhưng chịu nắng giỏi. Về mùa hè, nó có thể kéo cày, kéo bừa từ mờ sáng đến non trưa. Trâu tơ, trâu đực, trâu mờm kéo cày rất khoẻ. Trâu cái độ 2, 3 năm đẻ một lứa, mỗi lứa một con nghé. Câu tục ngữ: "ruộng sâu, trâu nái" nói lên chuyện làm giàu ở nhà quê ngày xưa.
Thịt trâu tuy không ngon bằng thịt bò, nhưng là nguồn thực phẩm rất dồi dào và có giá trị. Sữa trâu rất bổ. Da trâu thuộc để xuất khẩu, để làm giầy dép.
Màu xanh mênh mông của những đồng lúa, cánh cò trắng rập rờn điểm tô, và con trâu hiền lành gặm cỏ ven đê là hình ảnh thân thuộc đáng yêu của quê hương. Câu hát: "Ai bảo chăn trâu là khổ." của chú bé vắt vẻo ngồi trên lưng trâu, và tiếng sáo mục đồng mãi mãi là hồn quê non nước.
==========================
Bài 5
ÔN TẬP PHẦN VĂN
(tiếp theo)
I- Hệ thống các văn bản văn học đã học
(1) Nhớ rừng (Thế Lữ)
(2) Quê Hương (Tế Hanh)
(3) Khi con tu hú (Tố Hữu)
(4) Tức cảnh Pác Bó (Hồ Chí Minh)
(5) Ngắm trăng (Hồ Chí Minh)
(6) Đi đường (Hồ Chí Minh)
(7) Chiếu dời đô (Lí Công Uẩn)
(8) Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn)
(9) Nước Đại Việt ta (trích Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi)
(10) Bàn luận về phép học (trích Luận học pháp - La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp)
(11) Thuế máu (trích Bản án chế độ thực dân Pháp - Nguyễn Ái Quốc)
(12) Đi bộ ngao du (trích Ê-min hay về giáo dục - J Ru-xô)
(13) Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục (trích vở hài kịch Trưởng giả học làm sang - Mô-li-e)
II- Nội dung chủ yếu trong các văn bản đã học
1. Nỗi chán ghét thực tại tù túng và khao khát được trở về với cuộc sống tự do (Nhớ rừng; Khi con tu hú)
2. Bản lĩnh, phong thái ung dung của người cách mạng vượt lên mọi khó khăn thiếu thốn sống lạc quan, yêu đời (Tức cảnh Pác Bó; Ngắm trăng; Đi đường)
3. Tinh thần yêu nước, lòng tự hào về đất nước độc lập, tự cường (Chiếu dời đô; Hịch tướng sĩ; Nước Đại Việt ta)
4. Mục đích và phương pháp học chân chính (Bàn luận về phép học)
5. Tội ác của chính quyền thực dân Pháp đối với người dân thuộc địa (Thuế máu)
6. Lợi ích của đi bộ ngao du (Đi bộ ngao du)
7. Phê phán, chế giễu những kẻ thích học đòi làm sang một cách lố bịch
BÀI TẬP
Bài tập tham khảo: So sánh các bài thơ đã học của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Tản Đà với các bài thơ của Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Tế Hanh, Tố Hữu để nhận ra sự khác nhau về hình thức nghệ thuật và cách thức biểu đạt tâm trạng, cảm xúc.
1. Hình ảnh nhà thơ, người chiến sĩ Cách mạng trong các bài “Tức cảnh Pác Bó”, “Ngắm trăng”, và hình ảnh nhà chí sĩ Cách mạng trong các bài thơ “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” và “Đập đá ở Côn Lôn” có gì giống và khác nhau?
2. Viết một bài văn trình bày những cảm nhận của em về vẻ đẹp tâm hồn của Bác thể hiện qua 3 bài thơ: "Tức cảnh Pác Bó", "Ngắm trăng", "Đi đường"
Định hướng làm bài:
Bài tập tham khảo: Các bài thơ của Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Tế Hanh trong SGK Ngữ văn 8 thuộc loại hình thơ mới. Nó có nhiều nét khác biệt với thơ truyền thống.
- Về hình thức, cần chú ý tới sự khác biệt của thể thơ, ngôn ngữ, kết cấu.
- Về cách biểu cảm cũng có sự khác biệt khá rõ: thơ truyền thống thường thiên về nói chí tỏ lòng với cách nói khoa trương, dùng nhiều hình ảnh ước lệ. Còn thơ hiện đại (ở đây là thơ mới) thì tình cảm, cảm xúc được thể hiện trực tiếp hơn và mang cá tính của chủ thể trữ tình. Vì thế, thơ mới có khả năng biểu hiện phong phú , sinh động, cụ thể những xúc cảm. tình cảm, trạng thái tâm hồn của con người (phân tích vài ví dụ trong các bài thơ đã học).
1. Hình ảnh người chiến sĩ cách mạng trong 2 bài thơ của Bác Hồ có nhiều nét gần gũi với hình ảnh nhà chí sĩ Cách mạng trong thơ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Ở họ đều bộc lộ tinh thần, khí phách của người Cách mạng: xem thường gian khổ, hiểm nguy, vượt lên hoàn cảnh tù đày, kiên định mục đích lí tưởng. Nhưng ở 2 bài thơ: “Tức cảnh Pác Bó”, “Ngắm trăng” thì người chiến sĩ, vị lãnh tụ Cách mạng còn bộc lộ một tâm hồn nhạy cảm, một tình yêu thiên nhiên và niềm vui của người Cách mạng. Người chiến sĩ trong thơ Hồ Chí Minh cũng thường được thể hiện trong những hình ảnh gần gũi, giản dị, ít khi cần đến lối khoa trương, ước lệ như trong 2 bài thơ của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.
==========================

Tài liệu đính kèm:

  • docON TAP HE VAN 8.doc