Tích lũy chuyên môn (Tản mạn về ngày phụ nữ Việt Nam)

Tích lũy chuyên môn (Tản mạn về ngày phụ nữ Việt Nam)

Tản mạn về ngày phụ nữ Việt Nam

Vai trò của Phụ Nữ ngày nay , trong bất cứ xã hội nào , cũng rất quan trọng!

Ngày xưa , cũng vậy thôi!

Người Việt nói riêng , người Đông Nam Á cổ đại nói chung , đã dành những gì to lớn nhất , quan trọng nhất trong tự nhiên và trong xã hội cho phụ nữ :

Về nhận thức : Xa xưa , trong xã hội công xã nguyên thủy , rõ ràng con chỉ biết mẹ mà thôi , còn cha thì không nhất thiết phải nhớ tới! Mẹ, với bản năng sinh tồn , cắt rốn tạo ra một phiên bản của mình , là núm ruột không thể tách rời dù con đã lớn khôn !Giữa Mẹ và Con đã hình thành tình cảm vô thức , không nói ra nhưng Mẹ luôn đi tìm con , che chở cho con và ngược lại , Con luôn đi tìm Mẹ , từ trong vô thức sâu thẩm trong tâm hồn , hơi ấm của Mẹ luôn có sức hút mãnh liệt , vô hình nhưng rất mãnh liệt , cho dù đó là con trai đi nữa!Sức hút ấy có từ đâu?

Từ lúc được thụ thai , hài nhi đã có sợi dây liên kết từ Mẹ thật thiêng liêng và huyền diệu .

Mẹ từ từ cảm nhận được một sinh linh đang lớn dần , cựa quậy đáng yêu và tràn đầy hạnh phúc , cảm xúc khó tả mà đàn Ông không bao giờ có được.

Trí não trẻ thơ cũng ngập tràn cảm xúc của Mẹ , sự dịu dàng , hiền diệu , vuốt ve ngập tràng trong trí não sơ khai .

Cứ thế , theo thời gian , Con trẻ chào đời , tuy là hai cá thể : Mẹ -Con , độc lập từ đây , nhưng tình cảm vô thức thiêng liêng luôn đi hết cả cuộc đời.

 

doc 32 trang Người đăng nguyenhoa.10 Lượt xem 950Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tích lũy chuyên môn (Tản mạn về ngày phụ nữ Việt Nam)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tản mạn về ngày phụ nữ Việt Nam
Vai trò của Phụ Nữ ngày nay , trong bất cứ xã hội nào , cũng rất quan trọng!
Ngày xưa , cũng vậy thôi!
Người Việt nói riêng , người Đông Nam Á cổ đại nói chung , đã dành những gì to lớn nhất , quan trọng nhất trong tự nhiên và trong xã hội cho phụ nữ :
Về nhận thức : Xa xưa , trong xã hội công xã nguyên thủy , rõ ràng con chỉ biết mẹ mà thôi , còn cha thì không nhất thiết phải nhớ tới! Mẹ, với bản năng sinh tồn , cắt rốn tạo ra một phiên bản của mình , là núm ruột không thể tách rời dù con đã lớn khôn !Giữa Mẹ và Con đã hình thành tình cảm vô thức , không nói ra nhưng Mẹ luôn đi tìm con , che chở cho con và ngược lại , Con luôn đi tìm Mẹ , từ trong vô thức sâu thẩm trong tâm hồn , hơi ấm của Mẹ luôn có sức hút mãnh liệt , vô hình nhưng rất mãnh liệt , cho dù đó là con trai đi nữa!Sức hút ấy có từ đâu?
Từ lúc được thụ thai , hài nhi đã có sợi dây liên kết từ Mẹ thật thiêng liêng và huyền diệu ...
Mẹ từ từ cảm nhận được một sinh linh đang lớn dần , cựa quậy đáng yêu và tràn đầy hạnh phúc , cảm xúc khó tả mà đàn Ông không bao giờ có được...
Trí não trẻ thơ cũng ngập tràn cảm xúc của Mẹ , sự dịu dàng , hiền diệu , vuốt ve ngập tràng trong trí não sơ khai .
Cứ thế , theo thời gian , Con trẻ chào đời , tuy là hai cá thể : Mẹ -Con , độc lập từ đây , nhưng tình cảm vô thức thiêng liêng luôn đi hết cả cuộc đời...
Mẹ : số ít , Phụ Nữ : số nhiều đã là Nhân tố chính tạo ra tình cảm thiêng liêng ấy cho nhân loại mà cho đến ngày nay , rồi mai sau đi nữa cũng không có máy móc tối tân nào có thể thay thế được!
Và , nếu điều đó có xảy ra thì thế gian đã tận thế mất cả rồi!
Cho nên , Phụ Nữ , mãi mãi vẫn là trung tâm của vũ trụ!
Về tự nhiên : Cái nhà , cái bếp , cái nồi , cái sông ( sông cái -sông lớn nhất ) , đường cái ...Nam chỉ có đực rựa ( công cụ đốn củi ) mà thôi!Bởi vì trong vô thức Mẹ là khởi nguồn của tất cả!
Về xã hội : Vai trò của Phụ Nữ rất lớn trong xã hội nguyên thủy : Quyết định mọi việc trong làng , con gái mang họ mẹ ( Mẫu hệ ) , chia gia tài cho con gái út...( Người Ê Đê , Jo-rai , K'Ho ...ở Tây Nguyên)
Nhưng ngày nay , đa số các dân tộc trên thế giới đã bước sang chế độ Phụ hệ ( nhấn mạnh vai trò của đàn Ông trong mọi mặt của đời sống xã hội), còn một vài thiểu số vẫn duy trì chế độ Mẫu hệ như 5.000 năm trước ?Vì sao vậy ?
Trở lại thời công xã nguyên thủy , người Mẹ sáng tạo ra nghề Trồng trọt và chăn nuôi , khi mà người Cha đi săn bắt hái lượm không còn hiệu quả nữa vì tài nguyên thiên nhiên đã cạn dần ...
Người đàn Ông , đành sống phụ thuộc vào vợ , là cái bóng của vợ , và thế là mọi quyền hành đều nằm trong tay người Phụ Nữ . Cái gì quí , quan trọng đều là Cái ...là thuộc về Phụ Nữ cả !Đàn Ông các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên không hài lòng chứ ?Vâng , họ cũng đã cố gắng khẳng định sức mạnh của mình , ra khỏi nhà , đi gây chiến các bộ tộc khác ở xung quanh , nhằm đem về cho vợ con nô lệ , tài sản quí giá ...để lên làm Tù trưởng , để đổi ngôi !Để khẳng định phong độ của mình ?!Để lập nên chế độ Phụ hệ như bao đàn Ông khác của thế giới đã từng làm!
Không may mắn thay !Họ ở Tây Nguyên , được bao bọc bởi , phía Bắc là Đại Việt , phía Đông là Chăm Pa , phía Tây và Nam là Phù Nam , Chân Lạp hùng mạnh thì làm sao họ đánh nổi ...thôi thì về với nhà sàn xưa , sống dựa vào vợ và chấp nhận chế độ Mẫu hệ cho đến ngày nay!
Trở lại các dân tộc khác , là đa số , đang theo chế độ Phụ hệ thì sao ?Vì sao Họ đã vượt qua chế độ Mẫu hệ !Ngày nay , Họ chỉ kỷ niệm vài ngày trong năm để tỏ lòng biết ơn Phụ Nữ !Còn Phụ nữ phải đấu tranh dài dài về sự bất bình đẵng !Vì sao họ đã đổi ngôi trong lịch sử ?
Vì , Họ đã thành công trong các cuộc chiến tranh , chiếm được nhiều nô lệ , mở mang bờ cõi ...Xây dựng được xã hội dựa vào sức mạnh và sự trừng phạt...
Đến lúc này , vai trò đàn Ông cực kỳ lớn !
Nhưng giống như sợi dây đàn , căng cứng bao nhiêu thì nguy cơ đứt gãy càng nhiều bấy nhiêu...
Ngày 20/10 , 8/3 ... là Ngày đàn Ông nên nhớ về điều đó!
Mong rằng , Phụ Nữ hãy rộng vòng tay , đón nhận niềm hạnh phúc trong ngày vui này và từ trong vô thức , phụ nữ hãy đón nhận đàn Ông như đón nhận một sinh linh bé bỏng của mình!
Lịch sử ngày Quốc tế Phụ Nữ 8-3 
Cập nhật: 06/03/2007 
Lịch sử ngày Quốc tế Phụ nữ 8-3 bắt đầu từ phong trào đấu tranh đòi quyền sống của nữ công nhân Mỹ. 
Cuối thế kỷ 19, chủ nghĩa tư bản phát triển tột bậc, nhất là ở nước Mỹ. Nền kỹ nghệ phát triển, thu hút nhiều phụ nữ và trẻ em vào làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp. Bọn chủ tư bản lợi dụng sức lực của phụ nữ, trẻ em, trả lương rẻ mạt làm cho đời sống của phụ nữ và trẻ em cực khổ, điêu đứng. Căm phẫn trước sự áp bức tàn bạo đó, ngày 8/3/1899, tại hai thành phố Chicago và New-York (của nước Mỹ) đã nổ ra cuộc đấu tranh mạnh mẽ của nữ công nhân ngành dệt may, đòi tăng lương, giảm giờ làm. Mặc dù bị thẳng tay đàn áp, bắt bớ, đuổi ra khỏi nhà máy nhưng chị em vẫn đoàn kết, bền bỉ đấu tranh, buộc bọn chủ tư sản phải nhượng bộ. Thắng lợi đó đã cổ vũ tinh thần đấu tranh của phụ nữ lao động Mỹ. Ðến tháng 2 năm 1909 lần đầu tiên phụ nữ khắp nơi trên nước Mỹ đã tổ chức "Ngày phụ nữ " mít tinh, biểu tình rầm rộ đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ. Tại New-York đã có 3000 chị dự cuộc họp phản đối chính phủ công nhận quyền bầu cử của phụ nữ.
Những cuộc đấu tranh đầu tiên đó của nữ công nhân Mỹ đã có tiếng vang lớn, là nguồn cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh của phụ nữ lao động trên toàn thế giới. Trong phong trào đấu tranh lúc bấy giờ, đã xuất hiện 2 nữ chiến sĩ cách mạng lỗi lạc là bà Cơ-la-re-Zet-Kin (người Ðức) và bà Rô-da-luya-Xăm-Bua (người Ba Lan). Hai bà đã phối hợp với bà Cơ-rúp-xcai-a (vợ của Lê-nin) vận động thành lập Ban Thư ký quốc tế phụ nữ để lãnh đạo phong trào.
Trước sự lớn mạnh về số lượng và chất lượng của phong trào phụ nữ trên thế giới. Ngày 26 và 27 tháng 8 năm 1910, đại hội lần thứ 2 của những người phụ nữ thế giới đã được triệu tập ở Cô-pen-ha-gơ (thủ đô Ðan Mạch), về dự có 100 nữ đại biểu của 17 nước, đã quyết định lấy ngày 8/3 làm ngày quốc tế phụ nữ với mục đích đấu tranh đòi các quyền lợi của phụ nữ và trẻ em. 
Ngày làm việc 8 giờ. Công việc ngang nhau, tiền lương ngang nhau. Bảo vệ bà mẹ và trẻ em. 
Từ đó đến nay, ngày 8/3 trở thành ngày hội của phụ nữ thế giới, đoàn kết đấu tranh để tự giải phóng, thực hiện quyền nam nữ bình đẳng và cũng từ đó, phụ nữ tiến bộ khắp năm Châu tổ chức ngày 8/3 với những nội dung và hình thức phong phú.
Nội dung ngày quốc tế phụ nữ 8/3 không chỉ dừng lại ở quyền bình đẳng mà được mở rộng thêm khái niệm mới "phát triển", "Giới". Vấn đề phụ nữ đã được đông đảo các quốc gia trên thế giới nhìn nhận và đánh giá một các đầy đủ trên những khía cạnh khác nhau thông qua một loạt các hội nghị thế giới. Từ thập niên 70 đến nay, đã có 4 hội nghị thế giới về phụ nữ:
Hội nghị lần thứ nhất tổ chức tại Mêhicô năm 1975, mở đầu thập kỷ phụ nữ.
Hội nghị lần thứ hai tổ chức tại Côpenhagơ (Ðan Mạch) năm 1980.
Hội nghị lần thứ ba tổ chức tại Nairôbi (Kenya) năm 1985. Tại hội nghị này "Chiến lược nhìn về phía trước vì sự tiến bộ của phụ nữ" đã được thông qua.
Hội nghị lần thứ tư tổ chức tại Bắc Kinh (Trung Quốc) năm 1995.
Các hội nghị thế giới về phụ nữ do Liên hiệp quốc đứng ra tổ chức là những sự kiện Quốc tế to lớn đối với đời sống chính trị của toàn thế giới đặc biệt đối với phụ nữ. Vì lẽ đó, vấn đề giải phóng phụ nữ, vì sự tiến bộ của phụ nữ là một vấn đề toàn cầu. 
Mục đích của Hội nghị Bắc Kinh là nhằm kiểm lại việc thực hiện "Chiến lược nhìn về phía trước vì sự tiến bộ của phụ nữ" đã được đề ra tại hội nghị Narôbi và công ước liên hiệp quốc "Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ" (Công ước CEDAW) đồng thời thông qua "Cương lĩnh hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ toàn cầu đến năm 2000".
"Tuyên bố Bắc Kinh" và "Cương lĩnh hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ toàn cầu đến năm 2000" là hai văn kiện quan trọng nhất của hội nghị Bắc Kinh. Hai văn kiện này một mặt phác họa những trở ngại trên con đường phấn đấu cho sự bình đẳng của nữ giới bên cạnh nam giới; Mặt khác khẳng định những cam kết và sự quyết tâm của các chính phủ, các tổ chức quốc tế bằng mọi biện pháp nhằm tới mục tiêu Bình đẳng-Phát triển-Hòa bình vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Thực hiện cam kết đó, ngày 4 tháng 10 năm 1997, chính phủ nước ta đã có quyết định số 822/TTG về việc phê duyệt kế hoạch hành động Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ, ban hành 11 mục tiêu vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2000 nhằm cam kết trước thế giới Hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam thực hiện mục tiêu "Hành động vì bình đẳng, phát triển và hòa bình" của hội nghị Bắc Kinh.
Ở nước ta, ngày 8/3 còn là ngày kỷ niệm cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, 2 vị nữ anh hùng dân tộc đầu tiên đã đánh đuổi giặc ngoại xâm phương Bắc, giành lại chủ quyền dân tộc.
Niềm tự hào và ý chí vươn lên của phụ nữ Việt Nam một phần cũng có cội nguồn từ truyền thống dân tộc độc đáo đó./.
                                                                                                     Trung tâm Thông tin (st) 
Sự ra đời của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 
Cập nhật: 26/11/2004 
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, trong đó, phụ nữ Việt Nam giữ một vai trò trọng yếu 
Phụ nữ Việt Nam vốn sinh ra trong một đất nước với nền văn minh nông nghiệp, dựa trên nền tảng nghề trồng lúa nước và thủ công nghiệp nên phụ nữ Việt Nam đã trở thành lực lượng lao động chính. Bên cạnh đó, nước ta luôn luôn bị kẻ thù xâm lược, đời sống nghèo khổ. Từ thực tế đó mà người phụ nữ Việt Nam có bản sắc phong cách riêng: họ là những chiến sĩ chống ngoại xâm kiên cường dũng cảm; là người lao động cần cù, sáng tạo, thông minh; là người giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giữ gìn, phát triển bản sắc và tinh hoa văn hoá dân tộc; là những người mẹ dịu hiền, đảm đang, trung hậu đã sản sinh ra những thế hệ anh hùng của dân tộc anh hùng.
Dưới chế độ phong kiến và đế quốc, phụ nữ là lớp người bị áp bức, bóc lột, chịu nhiều bất công nhất nên luôn có yêu cầu được giải phóng và sẵn sàng đi theo cách mạng. Ngay từ những ngày đầu chống Pháp, phụ nữ đã tham gia đông đảo vào phong trào Cần Vương, Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du, còn có nhiều phụ nữ nổi tiếng tham gia vào các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam như: Hoàng Thị Ái, Thái Thị Bôi, Tôn Thị Quế, Nguyễn Thị Minh Khai...
Từ năm 1927 những tổ chức quần chúng bắt đầu hình thành và thu hút đông đảo tầng lớp phụ nữ như: Công Hội Đỏ, Nông Hội Đỏ, các nhóm tương tế, tổ học nghề và các tổ chức có tính chất riêng của giới nữ như: 
- Năm 1927 nhóm các chị Nguyễn Thị Lưu, Nguyễn Thị Minh Lãng, Nguyễn Thị Thủy là ba chị em ở làng Phật Tích (Bắc Ninh) tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, các chị tuyên truyền, xây dựng tổ học nghề đăng ten và học chữ.
- Nhóm chị Thái  ... ào đấu tranh, một số phụ nữ đã có mặt trong các tổ chức quân sự đầu tiên.
Những ngày mùa thu tháng Tám năm 1945, hàng triệu phụ nữ đã có mặt trong các cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, ở một số địa phương, phụ nữ là người chỉ huy khởi nghĩa. Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám đã đưa phụ nữ từ người dân nô lệ thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Kháng chiến chống Pháp nổ ra, phụ nữ khắp nơi lại tham gia vào những công việc ở hậu phương cũng như tiền tuyến. Từ năm 1950-1954, cả nước có hàng triệu phụ nữ gia nhập dân quân du kích đánh giặc bằng mọi phương tiện có trong tay như "đòn gánh đánh càn" (ở miền Bắc), "tầm vông diệt giặc" (ở miền Nam). Có thể nói, trong chiến đấu, phụ nữ tỏ ra không hề thua kém nam giới, nhiều tấm gương tiêu biểu đã được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang như chị Nguyễn Thị Chiên, chị Hồ Thị Bi, nữ quân báo Lê Thị Tạo...
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, ở miền Nam -nơi tuyến đầu của Tổ quốc, phụ nữ luôn là lực lượng đấu tranh hăng hái, dũng cảm và sáng tạo. Suốt 21 năm chiến đấu gian khổ, chị em đã vận dụng nhiều phương châm như đấu tranh hợp pháp, bất hợp pháp, xây dựng cơ sở trong lòng địch, bám đất bám dân, kiên cường chiến đấu. Đội quân tóc dài, các đội nữ du kích, nữ tự vệ, nữ biệt động luôn là nỗi kinh hoàng của quân xâm lược. Còn tại hậu phương lớn miền Bắc, phụ nữ sôi nổi hưởng ứng phong trào "Ba đảm đang" bảo vệ và xây dựng hậu phương vững mạnh, chi việc cao nhất sức người sức của cho tiền tuyến. Hàng vạn chị em đã tình nguyện tham gia TNXP, các đoàn dân công hoả tuyến. Khi giặc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, chị em có mặt nhiều hơn trong lực lượng dân quân trực tiếp chiến đấu, góp phần đáng kể vào thành tích bắn rơi 4000 máy bay địch, làm nên một trận "Điện Biên Phủ trên không" giữa bầu trời Hà Nội. Chiến thắng vĩ đại ngày 30/4/1975 có những đóng góp to lớn của phụ nữ miền Nam nói riêng và phụ nữ cả nước nói chung. 
Từ năm 1975 đến nay, phát huy truyền thống anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang phụ nữ cả nước đã đoàn kết, năng động sáng tạo trong lao động sản xuất, công tác và tổ chức cuộc sống gia đình. Không chỉ cần cù lao động sản xuất, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn thử thách của cơ chế thị trường, bằng tri thức, năng lực và trí tuệ, phụ nữ cả nước đã thực hiện tốt các phong trào thi đua do TW Hội LHPN Việt Nam phát động, góp phần đáng kể vào công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Có thể nói, những đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong các chặng đường đã qua sẽ là hành trang và kinh nghiệm đáng quý để chị em tiếp tục đem tài năng, trí tuệ góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước trong giai đoạn mới.
Phụ nữ Việt Nam thời kỳ đổi mới 
Cập nhật: 26/10/2005 
Để tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa và tiếp cận nền kinh tế tri thức, nước ta cần có những người phụ nữ mới. 
Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta, nhiều phụ nữ nông thôn bình thường đang trở thành nữ công nhân có trình độ. Họ không chỉ làm việc ở các nhà máy, xí nghiệp mà ngay cả trên đồng ruộng được cơ khí hoá, tự động hóa sản xuất. 
Xã hội Việt Nam đang biến đổi từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp và xã hội tri thức. Nhờ thông tin điện tử, thương mại điện tử, nền kinh tế của từng nước đang vượt giới hạn quốc gia và hình thành hệ thống kinh tế toàn cầu. Những ngành đông lao động nữ như các ngành nông nghiệp, thủy hải sản, công nghiệp may mặc, dịch vụ...đang từng bước  đi vào hệ thống kinh tế quốc tế. 
Đối với người phụ nữ, nhiều cơ hội mới đang mở ra cho sự phát triển của chị em, vì khoa học phục vụ họ, tạo cho họ nhiều việc làm phù hợp, có năng suất cao, từ đó nâng cao vị thế của họ. Thế giới đã đưa ra nhận xét rằng: "Nam giới đại diện cho thời đại công nghiệp, nữ giới đại diện cho thời đại thông tin". 
Dự kiến nói trên chỉ trở thành sự thật khi người phụ nữ Việt Nam đạt chuẩn mực người phụ nữ thời đại mới, có chất lượng trí tuệ cao, có kỹ năng lao động giỏi, có nhân cách và đạo đức tốt. Quán triệt tinh thần trên, Đại hội Phụ nữ Việt Nam toàn quốc lần thứ 9 đã nêu lên mục tiêu đạt chuẩn mực: "Người phụ nữ Việt Nam yêu nước, có tri thức, có sức khỏe, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân hậu, quan tâm đến lợi ích xã hội và cộng đồng". 
Sự hình thành chuẩn mực trên là sự kết hợp giữa những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, của phụ nữ Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và hướng tới tương lai, cùng với việc phát huy những giá trị tư tưởng, tinh hoa tốt đẹp của thời đại mới. 
Trước hết người phụ nữ thời đại mới cần có tri thức, có trình độ học vấn và kiến thức cao. Người lao động nữ, văn hóa tối thiểu phải hết phổ thông trung học để có thể điều hành nền sản xuất được cơ giới hóa, tự động hóa và sử dụng mạng lưới thông tin điiện tử. Sự phát triển của nền kinh tế tri thức đòi hỏi họ có trình độ chuyên ngành cao đẳng, đại học, sau đại học, đồng thời có kiến thức liên ngành, đa ngành bởi vì hoạt động sản xuất ngày nay thường là sự tiếp cận liên ngành. 
Nhà nước có chính sách đầu tư để gấp rút trí thức hoá lực lượng lao động nữ, nâng cao chất lượng và phát triển số lượng các nữ chuyên gia có trình độ khoa học và công nghệ cao. Tuy nhiên, điều cốt yếu là chị em có quyết tâm cao trong việc nâng cao năng lực bản thân: cần tranh thủ điều kiện, thời cơ tự học, tham gia các lớp học, học đủ, học có kết quả, thường ngày chịu khó đọc sách báo, nghe thông tin, khiên quyết gạt bỏ những lý do chưa cần, chưa vội cản trở việc học tập đều đặn. Để khắc phục lý do chị em thường nêu lên là do thiếu thời gian thì cần sắp xếp công việc khoa học, biết phối hợp giữa làm trách việc, học tập, chăm sóc gia đình và quyết tâm tuân theo lịch trình ấy. 
Điều quan trọng thứ hai là làm việc năng động sáng tạo. Cần cù chịu khó, tôn trọng kỷ luật, có nguyên tắc vốn là đức tính đáng quý của người phụ nữ Việt Nam, nhưng chưa đủ với thời đại mới. Khi trong nước và trên thế giới tình hình luôn biến động, những tình huống mới xuất hiện, do đó cần năng động sáng tạo, có cách suy nghĩ và giải quyết công việc khác trước, không theo nếp sống cũ, kinh nghiệm cũ. 
Tính độc lập sáng tạo của cá nhân, sự đổi mới tư duy trong suy nghĩ và hành động là hết sức cần thiết. Điều này đối với nhiều chị em có khó khăn, vì họ theo nếp quen thường chấp hành một cách thụ động. Chúng ta không nhầm lẫn giữa việc giữ vững kỷ luật công tác với tính độc lập sáng tạo của trong giải quyết công việc. Việc xử lý tốt những khó khăn, công việc đem lại kết quả mong muốn, chính là chúng ta đã làm việc với tinh thần trách nhiệm nghiêm túc. 
Là thành viên gia đình và thường làm trách nhiệm người trụ cột, đồng thời là một công dân sống giữa cộng đồng dân cư, người phụ nữ có nhiều quan hệ đa dạng, phức tạp. Họ cần có lối sống văn hóa, sống đẹp, sống tốt, có lòng nhân hậu, quan tâm không chỉ đến lợi ích cá nhân mà cả lợi ích của xã hội. Chuẩn mực đạo đức, tư cách đó phản ánh tính nhân văn sâu sắc của truyền thống phụ nữ  Việt Nam. 
Phụ nữ đồng thời phải đảm đương ba chức năng:  sản xuất, sinh con, nuôi con, chăm sóc gia đình, họ phải có sức khỏe dẻo dai mới  cáng đáng nổi những công việc đó cùng một lúc. Sức khỏe bền bỉ một phần do chế  độ dinh dưỡng lúc trẻ, một phần quan trọng phải tự rèn luyện, quan trọng hơn phải sống điều độ, từ ăn uống làm việc, vui chơi, tránh những thái quá cả  về mặt vật chất và tinh thần. 
Lòng yêu nước, yêu quê hương, đồng bào, lý tưởng cuộc sống cao đẹp cũng như tình cảm gắn bó với gai đình, dòng họ là động lực, là sức mạnh tự thân giúp người phụ nữ vươn lên, khắc phục mọi khó khăn, trở ngại để có thể làm giàu kiến thức của mình, có sức khỏe dẻo dai, có lối sống văn hóa, hoàn thành được nhiệm vụ đặt ra, cả sự nghiệp và gia đình. 
Mỗi người phụ nữ tạo ra bản lĩnh riêng, từ trí tuệ được nâng cao, nhạy bén  và năng động, cùng với vẻ đẹp nhẹ nhàng, sâu sắc tỏa ra từ tấm lòng nhân hậu của họ. Họ là những công dân ưu tú, giúp ích cho xã hội, đồng thời họ là người vợ hiền, người mẹ tận tâm, ngọn lửa quy tụ cả gia đình. 
Nguyễn Thị Duệ: Nữ tiến sĩ đầu tiên trong lịch sử khoa bảng nước nhà 
Cập nhật: 11/10/2007 
Chế độ khoa cử thời phong kiến nước ta trải ngót gần 900 năm, tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội dãy bia đá ghi tên hàng ngàn tiến sĩ trên mọi miền đất nước chiếm cứ khôi nguyên dưới mọi triều đại. 
Tất nhiên con đường công danh chỉ dành cho các bậc nam tử. Thế mà vẫn có trường hợp đặc biệt, vị nữ nho sinh Nguyễn Thị Duệ cải nam trang thi đậu tiến sĩ và làm quan đến Hàn Lâm viện thời vua Mạc Mậu Hợp.
Triều Mạc (1527-1592) từ Mạc Đăng Dung đến Mạc Mậu Hợp tồn tại 65 năm, rất quan tâm việc khoa cử để chọn nhân tài, cứ 3 năm (trước đó 6 năm) mở khoa thi, triệu tập sĩ tử tham dự. Việc cải nam trang đi học, đi thi và đắc cử của Nguyễn Thị Duệ, sách Lịch triều tạp ký và Quốc triều khoa bảng lục đều chép rõ Nguyễn Thị Duệ vốn phận gái, người làng Kiệt Đạt, huyện Chí Linh, trấn Hải Dương (Hải Dương quê gốc nhà Mạc), gia thế thuộc trung nông và đặc biệt không có truyền thống khoa bảng. Năm lên 10 tuổi, Duệ đã đọc được sách thánh hiền, văn hay, chữ tốt nổi tiếng trong vùng. Là phận gái mà thông tuệ khác thường, am hiểu tứ thư, ngũ kinh, có chí lớn như bậc nam tử. Duệ xin cha mẹ cải nam trang, đổi tên thành Nguyễn Văn Du sang làng khác học, thầy đồ cùng các bạn không ai hay biết. Học xong ở làng, Nguyễn Văn Du lên theo học thầy Nguyễn Nhân An, người từng đậu tiến sĩ, làm quan đến Tả Thị Lang đời vua Phúc Nguyên, văn tài của Du được các bạn đồng môn kính nể. Có thể kể đến bài Phú Triệu Vương (Triệu Thị Trinh) về phụ nữ nước Nam đánh giặc, trong đó có câu khẳng khái: 
- Trông bành voi, Ngô cũng lắc đầu, sợ uy lệ Hải Bà Vương những muốn bon chân về Bắc quốc.
- Ngồi yên ngựa, khách còn hoài cổ, tưởng gặp Lạc Hồng nữ tướng, càng thêm thẹn mặt đấng nam nhi.
Qua đó, cũng đủ thấy hùng văn của một khí phách lớn, chứng tỏ hơn người của kẻ văn nhân sĩ tử được tôi luyện nơi cửa Khổng, sân Trình. Nếu không là người thông hiểu kinh sử, sớm nuôi chí lớn thì làm sao có khẩu khí đến thế?! 
Năm 1585, Nguyễn Thị Duệ (Du) đậu khoa thi Hương chọn cử nhân, tiếp tục đường công danh hoạn lộ. Năm 1586, niên hiệu Đoan Thái trong kỳ thi Hội ở Thăng Long, Nguyễn Thị Duệ (Du) đắc tuyển đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân cùng 18 người khoa bảng cả nước. Sau lễ xướng danh vinh quy, bái tổ, Nguyễn Văn Du được mời vào kinh sư sung Hàn Lâm viện Đại học sĩ. Tiếc thay, đến thời Mạc Mậu Hợp, vị vua cuối cùng họ Mạc bị Triết Vương Trịnh Tùng tiêu diệt, kết thúc 65 năm tồn tại của Bắc triều họ Mạc. 
Rõ ràng việc học vấn, trí tuệ không phân biệt nam nữ, dù nữ giới vẫn chiếm đỉnh cao của trí thức. Cách nay trên 400 năm, cô gái Nguyễn Thị Duệ đã thành đạt trên trường khoa cử là chuyện hiếm có, độc đáo trong lịch sử khoa bảng Việt Nam.

Tài liệu đính kèm:

  • docLICH SU NGAY PHU NU VN.doc