MỤC LỤC
Nội dung Trang
Lời nói đầu 2
A - Phần mở đầu 3
1 - Lý do chon sáng kiến 3
2 - Đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu 4
3 - Phương pháp tiến hành sáng kiến 5
4 - Ứng dụng của sáng kiến 5
B - Nội dung 5
I - Cơ sở thực hiện 5
1 - Cơ sở lí luận 5
2 - Cơ sở khoa học 6
3 - Kết quả cần đạt 6
II - Nội dung 7
1 - Thực trạng về việc tích cực hoá tư duy HS trong giờ Vật lý ở trường TH$THCS Xuất Tác 7
2 - Giải pháp - Biện pháp thực hiện 9
III - Kết quả áp dụng sáng kiến 21
C - Kết luận 23
1 - Những kết luận trong quá trình nghiên cứu và bài họckinh nghiệm 23
2 - Những kiến nghị đề xuất 24
Tài liệu tham khảo 26
Đánh giá của hội đồng khoa học các cấp 27
MỤC LỤC Nội dung Trang Lời nói đầu 2 A - Phần mở đầu 3 1 - Lý do chon sáng kiến 3 2 - Đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu 4 3 - Phương pháp tiến hành sáng kiến 5 4 - Ứng dụng của sáng kiến 5 B - Nội dung 5 I - Cơ sở thực hiện 5 1 - Cơ sở lí luận 5 2 - Cơ sở khoa học 6 3 - Kết quả cần đạt 6 II - Nội dung 7 1 - Thực trạng về việc tích cực hoá tư duy HS trong giờ Vật lý ở trường TH$THCS Xuất Tác 7 2 - Giải pháp - Biện pháp thực hiện 9 III - Kết quả áp dụng sáng kiến 21 C - Kết luận 23 1 - Những kết luận trong quá trình nghiên cứu và bài họckinh nghiệm 23 2 - Những kiến nghị đề xuất 24 Tài liệu tham khảo 26 Đánh giá của hội đồng khoa học các cấp 27 LỜI NÓI ĐẦU V iệc vận dụng đúng và phù hợp các phương pháp dạy học theo đặc thù của môn sẽ đem lại hiệu quả cao cho quá trình dạy học. Trong các năm học gần đây với việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động tư duy của học sinh gắn liền với việc vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, đặc biệt là phương pháp dạy học nêu vấn đề đã đem lại kết quả tốt với học sinh . Để thực hiện được điều đó thì mỗi giáo viên phải không ngừng học tập và rèn luyện nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề. Từ đó mới có thể kết hợp và áp dụng được các phương pháp dạy học một cách phù hợp đối với các môn học thực nghiệm. Năm học 2008 – 2009 với việc vận dụng sáng kiến này vào dạy học cũng không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự tham gia đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học các cập. Tôi xin chân thành cám ơn! A - PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn sáng kiến Trong giai đoạn CNH – HĐH đất nước hiện nay cần phải có những con người có kiến thức, có trình độ, có khả năng tiếp cận với khoa học kỹ thuật hiện đại. Muốn như vậy ngay từ đầu các cấp học các giáo viên cần phải trang bị cho học sinh những kiến thức, tri thức cơ bản nhất, trang bị cho các em từ ý thức học tập, năng lực tự học, tự trau rồi , tìm kiếm kiến thức. Trên cơ sở đó các em có thể vận dụng linh hoạt những kiến thức đã học, đã thu hoạch vào cuộc sống sản xuất và lao động. Với yêu cầu trên mỗi giáo viên ngoài việc truyền thụ kiến thức cho học sinh, giáo viên còn phải hình thành cho học sinh năng lực hoạt động, năng lực tư duy sáng tạo. Giúp các em biết vận dụng kiến thức, thu thập kiến thức. Từ đó sử lí được các vấn đề đặt ra trong khoa học kỹ thuật và đời sống một cách hợp lí nhất, hiệu quả nhất. Trong chỉ thị của bộ giáo dục và đào tạo về nhiệm vụ toàn ngành đã chỉ rõ “ Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp ở bài học - cấp học và ngành học ”. Mục tiêu của giáo dục phổ thông hiện nay là: Hình thành và củng cố kiến thức, kỹ năng để tạo ra bốn năng lực chủ yếu sau: - Năng lực thích ứng. - Năng lực hành động. - Năng lực tự khẳng định mình. - Năng lực cùng sống và làm việc. Kiến thức và kỹ năng là một trong những yếu tố cấu thành năng lực của học sinh. Nhưng với trình độ phát triển khoa học và kỹ thuật với điều kiện tiếp cận thông tin như hiện nay, thì năng lực đạt được kiến thức và sử lý thông tin trở nên vô cùng quan trọng và được đặt lên hàng đầu. Việc phát triển tư duy sáng tạo của học sinh đã trở thành một trong những nhiệm vụ chủ yếu của việc dạy hoc. Nhờ đặc điểm của vật lý học và mối liên hệ chặt chẽ vật lý học với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, mà việc giảng dạy vật lý ở trường phổ thông tạo ra rất nhiều khả năng để tích cực hoá tư duy của học sinh trong quá trình dạy học. Chính vì vậy một biện pháp tác động có hiệu quả nhất trong việc dạy học vật lý là: “Tích cực hoá tư duy học sinh trong giờ vật lý học”. Trong chương trình Vật lý THCS dạy học theo hướng tích cự hoá hoạt động của học sinh không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học hiện có và thay vào đó là các phương pháp mới (phương pháp hiện đại). Các phương pháp dạy học truyền thống, với nét đặc trưng cơ bản là cung cấp những tri thức khoa học dưới dạng có sẵn đều có mặt tích cực của nó. Nếu giáo viên biết cách tìm cách cải tiến để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ học tập thì sẽ làm cho học sinh suy nghĩ nhiều hơn, làm việc nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn so với hiện nay. Vấn đề này đã có rất nhiều tài liệu tham khảo của nhiều tác giả khác nhau. Hầu hết đều đáp ứng được yêu cầu tích cực hoá tư duy của học sinh trong giờ vật lý. Song nhìn chung thường mang tính định hướng, chưa cụ thể đối với các dạng bài học. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc tích cực hoá tư duy học sinh trong gờ học Vật lý nhằm giúp học sinh của trường TH&THCS Xuất Tác có phương pháp học tập tốt, lĩnh hội được toàn bộ các kiến thức trong các giờ học, từ đó vận dụng được vào trong cuộc sống một cách thiết thực và có hiệu quả tôi đã chọn và áp dụng sáng kiến: “Tích cực hoá tư duy học sinh trong giờ vật lý học”. 2. Đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Tích cực hoá tư duy học sinh. - Phạm vi nghiên cứu: 29 học sinh lớp 8 trường TH&THCS Xuất Tác - Thời gian thực hiện: Năm học 2008 - 2009 3. Phương pháp tiến hành sáng kiến - Nghiên cứu lí luận: Cụ thể nghiên cứu về các vấn đề: + Tâm lý học sinh. + Điều kiện học tập và phương pháp học của học sinh. + Định hướng về đổi mới phương pháp dạy học vật lý THCS. + Phương pháp tiến hành thí nghiệm vật lý. - Phương pháp điều tra sư phạm. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. 4. Ứng dụng của sáng kiến Sáng kiến được dùng cho cán bộ giáo viên và học sinh trường TH&THCS Xuất Tác. B - NỘI DUNG I. Cơ sở thực hiện 1. Cơ sở lý luận Trong giáo dục hoạt động cơ bản là dạy và học. Trong đó hoạt động dạy học không chỉ đơn thuần là cung cấp cho các em kiến thức, và kinh nghiệm xã hội mà còn góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh theo mục tiêu đào tạo. Mục tiêu của bài viết này là tôi muốn giúp học sinh từ những học sinh có lực học trung bình, thậm chí học sinh yếu đến những học sinh, khá giỏi đều tích cực và ham học tập, biết vận dụng phương pháp học tập có hiệu quả nhất đối với bản thân. Qua đó học sinh nắm được vững vàng kiến thức vật lý, rèn khả năng tư duy lô gíc và lý luận thực tế. Hơn nữa rèn tính năng động, sáng tạo, cách làm việc khoa học. Đó là những phẩm chất của người khoa học, phải được hình thành ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. 2. Cơ sở khoa học Ngoài việc tích cực hoá tư duy học sinh khi đặt vấn đề, giả quyết vấn đề, củng cố kiến thức trong các tiết học. Giáo viên cần phải vận dụng tốt các phương pháp dạy học như: Phương pháp thí nghiệm vật lý. Phương pháp thực nghiệm. Phương pháp dạy học theo nhóm. Phương pháp dạy học một hiện tượng vật lý. Phương pháp dạy học một định luật vật lý. Phương pháp dạy học tiết bài tập vật lý. Đó là các phương pháp dạy học có hiệu quả nhất nhằm tích cực hoá tư duy học sinh. 3. Kết quả cần đạt - Về phía học sinh: + Nắm chắc và hiểu rõ lý thuyết, vận dụng được các kiến thức đã học vào giải bài tập Vật lý. + Lựa chọn được phương pháp học tập phù hợp cho bản thân. Biết cách tự học, tự rèn luyện, từ đó hình thành và phát triển nhân các và năng lực cần thiết của người lao động. + Rèn luyện khả năng tư duy, suy luật lô gíc. Thích tò mò khám phá, tranh luận khoa học. - Phía giáo viên: + Củng cố, nhấn mạnh cho học sinh những kiến thức cơ bản. + Hướng dẫn học sinh vận lí thuyết vào bài tập và thưc tế cuộc sống. + Qua các giờ học phát hiện ra được những điểm mạnh, điểm yếu của học sinh trong việc tiếp thu và vận dụng kiến thức, từ đó có những điều chỉnh phù hợp về phương pháp giúp học sinh tích cực học tập hơn, nắm bài tốt hơn. II. Nội dung Thực trạng về việc tích cực hoá tư duy học sinh trong giờ vật lý ở trường TH&THCS Xuất Tác Mỗi môn học có một đặc trưng riêng. Môn vật lý là một môn khoa học thực nghiệm. Các vấn đề mà môn vật lý nghiên cứu đều là những vấn đề liên quan đến các hiện tượng, quy luật, trong cuộc sống, trong lao động. Nắm được khoa học kỹ thuật vừa giúp cho học sinh có cơ sở để đạt được những mục đích, yêu cầu đã đề ra ở trên, đồng thời giúp các em có điều kiện phát triển tốt hơn, hoà nhập được trong tương lai. Thuận lợi: - Được sự quan tâm, chỉ đạo của các ngành các cấp trong việc đổi mới phương pháp dạy học. - Được sự chỉ đạo sát sao của ban giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn. - Là môn học đã được 7 năm đổi mới chương trình và phương pháp dạy học, do đó bản thân đã vận dụng một cách linh hoạt phương pháp mới trong quá trình dạy học. - Học sinh ngoan ngoãn, lễ phép với thầy cô giáo, một số em có sự vươn lên trong học tập. Khó khăn: Trường TH&THCS Xuất Tác là một trường có hai cấp học (TH và THCS) mới được thành lập tháng 8 năm 2008. Thuộc trường vùng sâu, vùng xa và đặc biệt khó khăn của huyện Võ Nhai. Điều kiện kinh tế của dân còn thấp, trình độ dân trí không đều. Tỷ lệ học sinh là con em dân tộc ít người chiếm tỉ lệ cao (khoảng 60% đến 70%) nên khả năng tiếp thu kiến thức còn nhiều hạn chế. Học sinh chưa có phương pháp học tập, lười tư duy trong các giờ học. Đặc biệt là học sing lớp 7. Điều kiện học tập, đi lại của học sinh còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. - Cơ sở vật chất còn thiếu: Phòng học còn thếu, trang thiết bị phục vụ cho dạy và học chưa đầy đủ. - Giáo viên giảng dạy có 6 đồng chí ở các chuyên môn khác nhau vì vậy ít có điều kiện giao lưu và tiếp cận với các phương tiện dạy học hiện đại. - Đối với môn học: Vật lí là môn khoa học thực nghiệm khó, cần phải đi từ các thí nghiệm để phát hiện sự vật hiện tượng. Từ đó phân tích, rút ra nhận xét, kết luận, hình thành kiến thức. Song vẫn có một số giáo viên chưa định hướng được phương pháp dạy đặc thù của bộ môn. - Đối với học sinh lớp 7: + Trong năm học trước chưa được giáo viên định hướng về việc tích cực hoá tư duy trong giờ học Vật lý. + Học sinh trong lớp không đồng đều, có sự chênh lệch về nhận thức rất rõ rệt. Đặc biệt nhận thức về môn học tự nhiên (Toán, Lý). Lý do là các em chưa biết phương pháp học tập, rỗng kiến thức nên sinh ra chán học, không muốn đầu tư thời gian, tâm huyết vào việc tìm tòi khám phá. Không chỉ vậy mà còn có một số học sinh chưa yêu thích môn học. Điều đó thể hiện ở một số kết quả khảo sát đầu năm đối với bộ môn Vật lý như sau: Khảo sát chất lượng đầu năm: + Giỏi: 0/29 (0%) + Khá: 3/29 (10,3%) + TB: 15/29 (51,7%) + Yếu: 6/29 (20,7%) + Kém: 5/29 (17,3%) - Điều tra về việc hứng thú học tập bộ môn: + Thích học môn Vật lý: 35% + Không thích học môn Vật lý: 65% Giải pháp - Biện pháp thực hiện Để khắc phục được thực trạng trên trong năm học 2008 – 2009 Tôi đã nghiên cứu, phân loại và áp dụng một số phương pháp dạy học nhằm tích cực hoá học tập của học sinh trong chương trình Vật Lí lớp 7. Các phương pháp này được vận dụng phù hợp cho từng bài dạy và đã đem lại một hiệu quả tích cực đối với giáo viên và học sinh của trường TH&TH ... ài tập, sau đó giáo viên trình bày lời giải của mình trên bảng cho học sinh ghi lại. Cách dạy như thế rất tẻ nhạt, nhàm chán đối với các đối tượng học sinh vì không có tác dụng giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn các kiến thức và kỹ năng cần vận dụng, không giúp họ phát triển khả năng tự lực, tích cực và sáng tạo trong việc giải quyết các tình huống mà bài tập đề ra. Các phương pháp dạy học trên nhằm tích cực hoá tư duy của học sinh đã được vận dụng trong năm học 2008 - 2009 đối với học sinh trường TH&THCS Xuất Tác. Tuy nhiên đối với chương trình vật lý lớp 7 chỉ có thể áp dụng các phương pháp: Phương pháp thí nghiệm vật lý; Phương pháp thực nghiệm; Phương pháp dạy học theo nhóm; Phương pháp dạy học một hiện tượng vật lý; Phương pháp dạy học một định luật vật lý. Còn phương pháp dạy học tiết bài tập vật lý ít được áp dụng vì trong trương trình các kiến thức chỉ ở mức định tính, chưa có định lượng. Mỗi phương pháp được vận dụng một cách triệt để đối với từng bài giảng. Dưới đây là một giáo án cụ thể được áp dụng các phương pháp trên trong năm học. VD: Bài 4: ĐỊNH LUẬT PHẢN XẠ ÁNH SÁNG (Đây là bài nghiên cứu định luật vật lý) I - Mục tiêu: 1. Học sinh biết tiến hành thí nghiệm để nghiên cứu đường đi của tia sáng phản xạ trên gương phẳng. 2. Biết xác định tia tới, tia phản xạ, pháp tuyến, góc tới, góc phản xạ. 3. Phát biệu được định luật phản xạ ánh sáng. 4. Biết ứng dụng định luật phản xạ ánh sáng để thay đổi hướng đi của tia sáng. II - Chuẩn bị: Mỗi nhóm học sinh Một gương phẳng có gia đỡ. Đèn pin tạo tia sáng. Một tờ giấy kẻ ô vuông. Một thước đo độ. III - Tổ chức hoạt động dạy học. Ổn định tổ chức. Kiểm tra bài cũ ? Phát biểu định luật truyền thẳng của ánh sáng. Khi nào có vùng bóng đen và vùng bóng mờ ? ? Khi nào có hiện tượng nhật thực, nguyệt thực ? Bài mới. Hoat động của thầy và trò Phần ghi bảng HĐ1: Tạo tình huống (2 phút) GV mô tả trò chơi tìm đường của Thanh và Hải, chỉ rõ việc hai em dùng gương để báo hiệu cho nhau. ĐVĐ: Gương là gì ? Dùng như thế nào để điều khiển được tia sáng theo ý muốn của mình ? HĐ2: Hình thành sơ bộ khái niệm gương phẳng. - GV yêu cầu HS quan sát và nhận xét xem mặt gương có đặc điểm gì. HS thảo luận theo nhóm và đưa ra nhận xét: mặt gương phẳng nhẵn, bóng. - GV yêu cầu học sinh soi gương và nói rõ xem nhìm thấy cái gì trong gương. HS: Thấy hình ảnh của mình và một số đồ vật khác trong gương. - GV thông báo: Hình ảnh mà ta qua sát được trong gương gọi là ảnh của vật đó tạo bởi gương. - GV củng cố: Yêu cầu học sinh liên hệ thực tế xem vật nào có thể coi là gương phẳng. HĐ3: Sơ bộ hình thành khái niệm về sự hình thành khái niệm về sự phản xạ ánh sáng. GV hướng dẫn làm thí nghiệm: Chiếu một tia sáng lên một tia sáng lên một gương phẳng (góc tới khác 0). - HS lấy tờ gấy trăng phẳng để hứng tia sáng bị mặt gương hắt lại. - GV hỏi: Sau khi gặp mặt gương ánh sáng bị hắt lại truyền theo nhiềuhướng khác nhau hay theo mọt hướng xác định ? - HS thảo luận đi đến kết luận: Tia sáng bị hắt lại theo một hướng xác định. - GV thông báo: Hiện tượng tia sáng sau khi tới mặt gương phẳng bị hắt lại theo một hướng xác định gọi là sự phản xạ ánh sáng. GV chỉ rõ tia tới và tia phản xạ. HĐ 4: Nghiên cứu tìm quy luật về sự đổi hướng của tia sáng khi gặp gương phẳng. - GV hướng dẫn học sinh làm những việc sau: + Dùng đèn pin chiếu tia tới SI lên gương phẳng (tia SI đi là là trên mặt tờ gấy kẻ ô). + GV hỏi: Tia phản xạ nằm trên mặt phẳng nào ? - GV có thể hướng dẫn học sinh dùng một vài tờ bìa phẳng khác để hứng tia phản xạ rồi kết luận. - GV đăt vấn đề: Hướng của tia phản xạ quan hệ như thế nào với hướng của tia tới ? - GV đưa ra giải pháp sau: + Để xác định vị trí của tia tới ta dùng góc SIN =i (gọi là góc tới). + Để xác định vị trí của tia phản xạ ta dùng góc NIR =i’ (gọi là góc phản xạ). - GV tổ chức các nhóm làm thí nghiệm với i = 600, 450, 300 rồi cho HS đo cácgóc phản xạ tương ứng. - HS ghi kết quả vào bảng rồi nhận xét, rút ra kết luận. - GV hướng dẫn HS biểu diễn bằng hình vẽ. HĐ5: Phát biểu định luật Trên cơ sở kết quả TN, GV cho HS điền vào ô trống ở phần bài tập và phát biểu lại bằng lời. HĐ6: Biểu diễn gương phẳng và các tia sáng trên hình vẽ. - Hướng dẫn làm câu C3. - Cho HS tự vẽ, sau đó hướng dẫn: a) Vẽ tia pháp tuyến tại I, đo góc I; vẽ góc i’ = i, vẽ tia phản xạ IR b) GV gợi ý: Pháp tuyến còn là đường phân giác của góc SIR và vuông góc với gương. Từ đó HS tìm ra cách vẽ: + Kẻ đường phân giác của góc SIR(chính là pháp tuyến) + Đặt gương vuông góc với pháp tuyến tại I Gương phẳng Quan sát Nhận xét: Mặt phẳng, nhẵn bóng. Hình ảnh quan sát được trong gương được gọi là ảnh của vật đó tạo bởi gương phẳng. Sự phản xạ ánh sáng trên gương phẳng Thí nghiệm Kết luận: + Tia sáng truyền tới gương gọi là tia tới. + Tia áng bị gương hắt lại gọi là tia phản xạ. Định luật phản xạ ánh sáng KL: Tia phản xạ nằm trong cùng mặt phẳng với tia tới và pháp tuyến với gương tại điểm tới. KL: Góc phản xạ và góc tới luônbằng nhau. * Biểu diễn gương phẳng và các tia sáng trên hình vẽ * Định luật phản xạ ánh sáng(SGK). - Làm câu C3 Củng cố GV yêu cầu HS: Phát biểu định luật phản xạ ánh sáng. Đọc phần có thể em chưa biết. Hướng dẫn về nhà - Học bài theo SGK - Làm các bài tập: 3.1, 3.2, 3.3 (SBT) * Rút kinh nghiệm giờ dạy: III. Kết quả áp dụng sáng kiến Với việc áp dụng sáng kiến này trong năm học 2008 - 2009 đối với 29 học sinh lớp 7 của trường TH&THCS Xuất Tác đã đạt được một số kết quả sau: - Đối với giáo viên: + Vận dụng tốt các phương pháp dạy học tích cực hoá tư duy của học sinh trong các giờ dạy. + Với sáng kiến này đã định hướng được cho tất cả các đối tượng học sinh một phương pháp học tập có hiệu quả. - Đối với học sinh: + Đa số học sinh nắm được các kiên thức cơ bản của chương trình, biết cách tiến hành các thí nghiệm có trong chương trình, kỹ năng thực hành thành thạo. + Phần lớn học sinh tích cực tư duy trong các giờ học, yêu thích môn Vật lí, thích khám phá cái mới và say mê với việc học tập. + Mỗi học sinh có được một phương pháp học tập phù hợp cho bản thân đối với từng nội dung bài học. * Kết quả đối chứng trước và sau khi áp dung sáng kiến: Kết quả khảo sát đầu năm Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ 0 0% 3 10.3% 15 51.7% 6 20.7% 5 17.3% Sau khi áp dụng sáng kiến Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL 5 17.2% 4 13.8% 19 65.5% 1 3.4% 0 0% * Kết quả điều tra về việc hứng thú học tập bộ môn: + Thích học môn Vật lý: 85% + Không thích học môn Vật lý: 15% * Những tồn tại trong quá trình thực hiện: - Một số thiết bị thí TN bị hỏng không sử dụng được và cho kết quả không chính xác. Ví dụ như dây dẫn, biến trở, bút thử điện. - Thiết bị thí nghiệm đã bị hư hỏng không còn đủ cho 6 nhóm học sinh thực hành. - Một số học sinh chưa quan tâm nhiều đến việc làm bài tập tại lớp cũng như ở nhà. C - KẾT LUẬN 1. Những kết luận trong quá trình nghiên cứu và bài học kinh nghiệm Để kích thích tư duy, hứng thú học tập của học sinh. Trong năm học 2008 – 2009 tôi đã vận dụng sáng kiến này vào việc dạy học Vật lí đối với đối tượng học sinh lớp 7 của trường TH&THCS Xuất Tác. Tuy kết quả đạt được chưa cao, song cũng giúp đại đa số học sinh yêu thích môn Vật lí, biết thao tác thí nghiệm để hình thành và kiểm nghiệm các kiến thức. Trong quá trình ngiên cứu và áp dụng sáng kiến này tôi rút ra được một số bài học kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy như sau: - Phải nắm vững chương trình giáo dục phổ thông môn Vật lí ở THCS. - Giáo viên phải có kĩ năng xác định mục tiêu dạy học đã lượng hoá của từng bài, từng đơn vị kiến thức. - Có kĩ năng tổ chức cho học sinh hoạt động chiếm lĩnh kiến thức. Để làm tốt công việc này mỗi giáo viên cần tổ chức tốt tình huống học tập, từ đó thu thập thông tin, xử lí thông tin, thông báo kết quả làm việc, vận dụng, ghi nhớ kiến thức. Các câu hỏi cần phân loại để phù hợp với từng đối tượng học sinh: Câu hỏi biết, câu hỏi hiểu, câu hỏi vận dụng, câu hỏi phân tích, câu hỏi tổng hợp, câu hỏi đánh giá. - Sử dụng thiết bị thí nghiệm: + Khi làm thí nghiệm cả giáo viên và học sinh cần phải nắm được mục đích của thí nghiệm. + Nắm chắc các bước tiến hành thí nghiệm. Thao tác thí nghiệm cẩn thận, chính xác. Tránh làm đi làm lại thí nghiệm nhiều lần, mất tính thuyết phục. + Với các thí nghiệm cần cho học sinh dự đoán trước hiện tượng, kết quả. Từ đó tiến hành thí nghiệm kiểm tra dự đoán và kết luận dự đoán. + Đối với những thí nghiệm giáo viên làm biểu diễn cần phải làm trước khi lên lớp. Giải quyết trước các tình huống có thể xảy ra. Thí nghiệm phải thành công và có tính thuyết phục. + Với những thí nghiệm học sinh làm theo nhóm: Giáo viên cần phải hướng dẫn, gợi ý cách làm. Trong khi học sinh làm thí nghiệm giáo viên luôn luôn phải quan sát, hướng dẫn kịp thời các nhóm còn lúng túng, không biết tiến hành, quan sát và ghi kết quả. + Khi có kết quả thí nghiệm cần phải tổ chức và điều khiển lớp hình thành kiến thức bằng những câu hỏi kích thích tư duy học sinh. + Có sự kết hợp tốt giữa các nhóm (các nhóm nhận nhận xét đánh giá lẫn nhau), giáo viên thường xuyên động viên khi học sinh thao tác, có kết quả tốt, phê bình những học sinh chưa có ý thức học tập, chưa tích cực trong giờ học. 2. Những kiến nghị đề xuất - Thường xuyên mở các hội nghị chuyên đề về phương pháp giảng dạy môn Vật lí để các giáo viên được giao lưu, học tập kinh nghiệm lẫn nhau. - Đồ dùng thí nghiệm cần có sự chính xác cao. - Thường xuyên bổ xung các thiết bị thí nghiệm bị hết, và hư hỏng. - Cần mở các lớp tập huấn cho giáo viên dạy Vật lí 7 về kỹ năng làm thí nghiệm để giúp cho họ có điều kiện giảng dạy tốt hơn. - Cần phải có phòng học bộ môn để các giờ học được diễn ra thuận lợi và hiệu quả. Trên đây là một số suy nghĩ, kinh nghiệm đã được tôi vận dụng vào thực tiễn giảng dạy trong chương trình Vật lý THCS. Nhìn chung bước đầu trên diện hẹp đã thu được một số kết quả tốt. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện cũng còn gặp một số khó khăn và không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong Hội đồng khoa học xem xét, đánh giá và cho những ý kiến bổ xung để tôi có điều kiện hoàn thiện và bản thân nâng cao thêm kinh nghiệm, kiến thức về chuyên môn để ngày càng giảng dạy được tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn ./. Ngày 20 tháng 5 năm 2009 NGƯỜI THỰC HIỆN Đào Xuân Hiển TÀI LIỆU THAM KHẢO - Sách giáo khoa Vật lí 7. - Sách giáo viên Vật lí 7. - Sách bài tập Vật lí 7. - Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên môn Vật lí. - Tài liệu đổi mới phương pháp dạy học. - Hướng dẫn thí nghiệm thực hành Vật lí 7. - Danh mục thiết bị Vật lí 7. - Thiết kế bài giảng Vật lí 7. ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CÁC CẤP
Tài liệu đính kèm: