A. PHẦN MỞ ĐẦU :
I- Lý do chọn đề tài:
1. Cơ sở lí luận :
Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong 4 dạng hoạt động - tương ứng với chúng là 4 kỹ năng "nghe, nói, đọc, viết".
Tập đọc là phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh của bậc học đầu tiên trong trường phổ thông. Nếu không biết đọc con người sẽ không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường có hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện nay.
Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây họ biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên - xã hội. Đọc là phương tiện văn hoá cơ bản giúp con người giao tiếp với thế giới bên trong của người khác qua các tác phẩm văn chương. Con người không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà con rung động tình cảm nảy nở ước mơ tốt đẹp khơi dậy sức mạnh sáng tạo, cũng như được bồi dưỡng tâm hồn. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ thông tin thì biết đọc càng quan trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn thông tin.
A. PHẦN MỞ ĐẦU : I- Lý do chọn đề tài: 1. Cơ sở lớ luận : Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong 4 dạng hoạt động - tương ứng với chúng là 4 kỹ năng "nghe, nói, đọc, viết". Tập đọc là phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh của bậc học đầu tiên trong trường phổ thông. Nếu không biết đọc con người sẽ không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường có hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện nay. Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây họ biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên - xã hội. Đọc là phương tiện văn hoá cơ bản giúp con người giao tiếp với thế giới bên trong của người khác qua các tác phẩm văn chương. Con người không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà con rung động tình cảm nảy nở ước mơ tốt đẹp khơi dậy sức mạnh sáng tạo, cũng như được bồi dưỡng tâm hồn. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ thông tin thì biết đọc càng quan trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn thông tin. Trong khi đó ở trường Tiểu học việc dạy đọc bên cạnh những thành công còn nhiều hạn chế nhất là học sinh của chúng ta chưa đạt được hiệu quả như mong muốn trong môn tập đọc. Kết quả đọc của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kỹ năng đọc, các em chưa nắm chắc được công cụ hữu hiệu để lĩnh hội tri thức, tư tưởng tình cảm của người khác chứa đựng trong văn bản chưa có kỹ năng về giọng đọc cách phát âm làm thế nào để các em cảm nhận được hiểu được văn bản - làm thế nào để phối hợp đọc thành tiếng và đọc hiểu - làm thế nào để cho những gì đọc được tác động vào chính cuộc sống của các em. Vậy làm thế nào để các em đọc được tốt. Đó chính là lý do để tôi chọn đề tài “ Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp 3" 2. Cơ sở thực tiễn : a. Thuận lợi : Trong những năm gần đây việc dạy học môn tiếng Việt nói chung và phân môn tập đọc nói riêng ở bậc tiểu học được Bộ Giáo dục, sở, phòng, Ban giám hiệu, giáo viên rất quan tâm. Chính vì vậy việc rèn đọc cho học sinh phải được đặt lên hàng đầu và thực hiện xuyên suốt trong nhiệm vụ năm học. Sách giáo khoa và một số tranh ảnh minh họa cho các bài tập đọc tương đối đầy đủ tạo điều kiện cho việc dạy - học đạt kết quả hơn. Chương trình môn học hợp lí tạo điều kiện cho giáo viên có kế hoạch kèm học sinh. Đặc biệt là hiện nay có chương trình dạy tăng buổi, giúp giáo viên có thời gian rèn luyện cho học sinh đọc tốt hơn và học sinh có nhiều thời gian được luyện đọc ở lớp nhiều hơn. b. Khú khăn : - Trình độ đọc của các em không đồng đều. - Một số phụ huynh ít quan tâm đến việc học ở nhà của con em mình. - ý thức tự học và luyện đọc của học sinh nhiều em chưa tốt. II/ Mục đích nghiên cứu. - Góp phần giúp học sinh lớp 3 học tốt môn tập đọc. - Các em thích thú học tập tạo đà để học tốt môn Tiếng Việt và các môn học khác cũng như ở các cấp học trên và ứng dụng trong cuộc sống. III/ Giới hạn của đề tài : Do điều kiện thời gian có hạn. Nên tôi chỉ đề cập đến vấn đề giúp học sinh lớp 3 học tốt phần luyện đọc của phân môn tập đọc tại trường Tiểu học - THCS Mỹ Xương. B. PHẦN NỘI DUNG : I/ Cơ sở lý luận: - Để xác định được nhiệm vụ của dạy đọc cần làm rõ "đọc là gì" có nhiều định nghĩa về đọc và mỗi định nghĩa thường nhẫn mạnh những khía cạnh khác nhau của đọc. Trong cuốn "Sổ tay thuật ngữ phương pháp dạy học tiếng Nga" (1998) - Viện sỹ M.R.Lơvôp đã định nghĩa "Đọc là một dạng ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng) là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh". - Định nghĩa: Thể hiện một quan niệm đầy đủ về đọc xem đó là một quá trình giải mã 2 bậc, chữ viết -> âm thanh và chữ viết (âm thanh) -> nghĩa. Như vậy đọc không chỉ đánh vần phát âm thành tiếng theo các ký hiệu chữ viết, cũng không chỉ là quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì được đọc, đọc chính là sự tổng hợp của 2 quá trình này. II/ Cơ sở thực tiễn : - Dạy đọc có ý nghĩa rất to lớn ở Tiểu học. Đọc trở thành một đòi hòi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người đi học. Đầu tiên trẻ em phải học đọc sau đó đọc để học, đọc giúp các em chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập đọc là một công cụ để học tập các môn học khác. Đọc tạo ra hứng thú và động cơ học tập đọc tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời, nó là khả năng không thể thiếu được trong thời đại văn minh. Chính vì vậy trường có nhiệm vụ dạy đọc cho học sinh một cách có kế hoạch và hệ thống. Tập đọc với tư cách là phân môn của Tiếng Việt ở Tiểu học có nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu này - đó là hình thành và năng lực đọc cho học sinh. - Tập đọc là phân môn thực hành - nhiệm vụ quan trọng nhất là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ 4 kỹ năng bộ phận cũng là 4 yêu cầu của chất lượng của đọc - đọc đúng đọc nhanh (đọc lưu loát, đọc trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu và đọc hay - mà ở mức độ cao hơn là đọc diễn cảm). - 4 kỹ năng của đọc được hình thành trong 2 hình thức đọc là đọc thành tiếng và đọc thầm. 2 hình thức này được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau, sự hoàn thiện một trong những kỹ năng này sẽ có tác động tích cực đến những kỹ năng khác. - Dạy đọc còn giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành phương pháp và thói quen làm việc với sách cho học sinh - thông qua việc dạy đọc và làm cho học sinh thích đọc. Và thấy được rằng khả năng đọc là có ích lợi cho các em trong cả cuộc đời, phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ và phát triển. - Đọc một cách có ý thức tác động tới ngôn ngữ và tư duy của người đọc. Đọc sẽ giúp các em hiểu biết hơn bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện, cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ lô gich cũng như biết tư duy có hình ảnh. Đọc không chỉ giáo dục tư tưởng đạo đức mà còn giáo dục tính cách thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh. - Như vậy môn tập đọc có một ý nghĩa to lớn vì nó có cả các nhiệm vụ giáo dục, giáo dưỡng và phát triển. - Nội dung môn tập đọc của Tiếng việt lớp 3 được sắp xếp theo các chủ điểm thứ tự từ gần đến xa, từ dễ đến khó so với lớp 2 chủ điểm ở lớp 3 được mở rộng và nâng cao hơn. III/ Thực trạng việc dạy học phân môn tập đọc ở lớp 3 trường TH-THCS Mỹ Xương : + Đặc điểm tình hình trường: - Về đội ngũ giáo viên : Riêng giáo viên khối 3, có 4 giáo viên chủ nhiệm. Trình độ đào tạo cao: 03 giáo viên có trình độ đại học, 1 giáo viên trình độ CĐSP. - Về phía học sinh: Qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 3 cũng như quá trình quan sát, dự giờ việc dạy học của giáo viên. Qua việc khảo sát học sinh ngay từ đầu năm tôi thấy số lượng học sinh đã đạt được kết quả như sau: * Kết quả phiếu điều tra ở lớp 3 thu được như sau: - Em thích học giờ tập đọc: 60% - Em thích học các môn học khác hơn: 40%. * Khảo sát kết quả bài thi cuối học kỳ I (năm học 2011 - 2012) : Lớp Số lượng bài Giỏi Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % 3/3 30 2 6,7% 17 56,7 8 26,7 3 10,0 * Thực trạng học sinh lớp 3/3 ở trường TH Mỹ Xương : + Thuận lợi: - GV nắm vững quy trình dạy phân môn tập đọc. - Phát huy được tính chủ động sáng tạo và linh hoạt trong việc vận dụng PPDH. - Chuyên môn của trường đã tích cực chủ động trong việc bồi dưỡng nâng cao tay nghề dạy học tập đọc cho giáo viên. + Khó khăn: - Giáo viên chưa chủ động trong việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh. Mặc dù đã đảm bảo kế hoạch chương trình cộng với sự nỗ lực cố gắng của thầy và trò song kết quả của phân môn Tập đọc chưa cao. Chính vì vậy mà việc tìm ra một giải pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn tập đọc là một việc làm cần thiết. IV/ Cỏc biện phỏp giải quyết vấn đề : * Đội ngũ giáo viên : - Tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên chưa cập chuẩn, đồng thời giáo viên cần tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của mình để vững vàng tay nghề trong công tác giảng dạy. - Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, mạnh dạn học hỏi trao đổi góp ý với nhau về phương pháp dạy, nội dung bài dạy và cách chấm, chữa những lỗi học sinh đọc sai chính tả. Góp ý tiết dạy một cách thẳng thắn, cùng nhau tìm tòi cách dạy hay, qua tìm hiểu những bài viết chuyên đề, những sáng kiến kinh nghiệm hay của trường bạn... đề cập đến vai trò, vị trí, cách thức, hình thức dạy học nói chung và phân môn tập đọc nói riêng . - Trong quá trình dạy học phải thực sự coi đây là quá trình thầy tổ chức hướng dẫn, trò tích cực chủ động sáng tạo . Trước hiện trạng đó, tôi đã suy nghĩ và qua quá trình nghiên cứu tôi tìm ra những biện pháp khác nhau nhằm nâng cao chất lượng đọc cho học sinh. Mỗi giai đoạn tôi đều lấy kết quả đã đạt được để đối chứng với kết quả giai đoạn trước và năm trước và cuối cùng đi tổng hợp số liệu và rút ra bài học kinh nghiệm. * Quá trình dạy học. + Tổ chức tiết học hoạt động sôi nổi gây hứng thú học tập cho học sinh : Đối với học sinh Tiểu học điều này vô cùng quan trọng, nó có ý nghĩa quyết định thành công giờ học. Lứa tuổi 6 - 10 tuổi là lứa tuổi năng động, khả năng chú ý đúng mức chỉ trong vòng 20 - 25 phút (cho nên tiết học hiện nay chỉ còn 35 - 40 phút). Đối với các em phải ngồi yên một chỗ không được nói chuyện, nghịch ngợm là một việc làm thật khó vì vậy người thầy giáo cần hướng tính năng động đó vào một mục đích, thì giờ học mới có hiệu quả không nên lầm tưởng phát vấn trong giảng dạy đối thoại giữa thầy và trò là đủ tạo nên không khí sôi động, hào hứng. Phải làm sao dạy đúng đặc trưng của môn học mà vẫn hướng cho các em học mà chơi, chơi mà học, vui sôi nổi là tính chất phải có của hoạt động, còn học và lĩnh hội kiến thức là mục đích cuối cùng cần đạt đến của hoạt động. Muốn như vậy kiến thức kỹ năng cần trau dồi cho học sinh được giáo viên sắp xếp lồng ghép vào các hoạt động - thay một số lời thuyết giảng khô khan bằng hoạt động sôi nổi. Đối với tiết tập đọc giáo viên nên tổ chức hoạt động theo nhóm đôi - học sinh theo dõi bạn mình đọc - phát hiện bạn đọc sai lỗi chính tả để sửa lỗi chính tả cho bạn, đồng thời bản thân cũng được rèn giũa hoặc có thể thi đọc giữa các nhóm hoặc đối với những từ khó đọc, đoạn khó đọc thi đọc đúng, đọc nhanh tạo không khí thoải mái vui vẻ mà vẫn đạt hiệu quả. Từ những việc thi đua lành mạnh đã kích thích các em tập trung vào giờ học một cách hăng say đó chính là hứn ... ới thiệu gây xúc cảm tạo hứng thú vào tâm thế học tập, khiến học sinh chú ý, tập trung làm việc với văn bản. Giáo viên tiến hành hoạt động này sau khi gợi dẫn vào bài mới. Đưa ra mẫu về đọc thành tiếng đây chính là cái đích mẫu hình kỹ năng đọc mà học sinh cần đạt được, đồng thời giáo viên dùng giọng đọc mẫu để cho học sinh có một biểu tượng ban đầu về nội dung văn bản, lúc này đọc mẫu lại là phương tiện để học sinh bước đầu làm quen văn bản để chiếm lĩnh nội dung, bước đọc mẫu rất quan trọng vì cách tiếp xúc trực tiếp, ấn tượng đầu tiên nó quyết định việc học sinh yêu thích hay không yêu thích bài tập đọc. Yêu cầu đọc mẫu phải đảm bảo chất lượng đọc đúng chuẩn: Đọc đúng, rõ ràng, trôi chảy, đọc đủ lớn, nhanh vừa phải và diễn cảm. Khi đọc mẫu giáo viên cầm sách đúng theo quy cách: đỡ sách bằng lòng bàn tay trái, ngón tay trỏ kẹp giữa hai trang sách. Giáo viên phải ổn định trật tự, tạo cho học sinh tâm thế, hứng thú nghe đọc, yêu cầu học sinh theo dõi bài đọc, khi đọc giáo viên đứng ở vị trí bao quát ở cả lớp không nên đi lại trong khi đọc, giáo viên cần thỉnh thoảng nhìn lên học sinh để tạo được sự giao cảm, thu hút các em. Mặc dù vậy việc hướng vào người nghe trong khi đọc không được làm bài đọc bị gián đoạn. Muốn vậy trước khi lên lớp giáo viên phải đọc kỹ bài nhiều lần có sự chuẩn bị bài chu đáo. + Thực hiện tốt bước hướng dẫn học sinh đọc từng câu trong văn bản: - Trước hết cần hiểu được mục đích đọc từng câu trong quy định trình hướng dẫn học sinh luyện đọc ở lớp 3 đó là: Chia nhỏ văn bản (thành đơn vị giao tiếp nhỏ nhất của lời nói là câu) cho nhiều học sinh được tham gia tích cực vào quá trình luyện đọc, qua đó bộc lộ năng lực đọc (thành tiếng) của từng cá nhân. Trong khi học sinh đọc giáo viên có thể sơ bộ cảm nhận được ưu điểm hạn chế về kỹ năng đọc của học sinh, để từ đó có biện pháp động viên hay giúp đỡ kịp thời những "thông tin ngược" từ phía học sinh qua việc thực hành. Đọc câu còn là cơ sở để giáo viên lựa chọn nội dung dạy học thiết thực tránh những áp đặt mang tính chủ quan. Đối với những từ ngữ có nhiều học sinh đọc sai trong một câu thì cần hướng dẫn cả lớp phát âm cho đúng ví dụ: khướu lĩnh xướng (trong bài tập đọc ngày hội rừng xanh tiếng việt 3 - tập 2) cho học sinh đọc tiếng khướu, tiếng lĩnh từ 1 - 2 lần sau đó ghép khướu lĩnh xướng đối với những từ chỉ có một vài học sinh đọc sai thì chỉ cần sửa cách phát âm cho các học sinh ấy. Ví dụ: nổi mõ; gõ kiến (Ngày hội rừng xanh – Tiếng việt 3 tập 2). Một số em thường hay đọc: nổi mỏ; gỏ kiến giáo viên cần sửa lại bằng cách đọc mẫu và hướng dẫn đọc tiếng mõ hoặc gõ mang dấu thanh ngã hai tiếng này khi đọc tròn môi lại và phát âm được chặn ở phần họng. Được đọc và nghe bạn đọc từng câu học sinh còn nhận thức được (một cách trực giác) đơn vị nhỏ nhất của lời nói (câu): phải diễn đạt chọn ý kết hợp với những kiến thức được cung cấp qua các bài luyện từ và câu học sinh sẽ dễ dàng tiếp nhận và thực hành cách viết câu đúng ngữ pháp Tiếng việt. Cần làm tốt bước này để nhiều học sinh được luyện đọc. Đây là bước "cày vỡ" tạo cơ hội cho nhiều em có hứng thú tiếp xúc với văn bản và được luyện đọc trước bạn trước cô, những em đọc sai được phát hiện sửa sai ngay tại lớp. + Hướng dẫn học sinh biết cách nghỉ hơi đúng khi đọc : Để đọc được lưu loát người đọc cần biết cách nghỉ ngơi đúng nhất là khi đọc những câu dài. Hướng dẫn học sinh cần nghỉ ngơi ở chỗ có dấu kết thúc câu hoặc dấu có ngăn cách các bộ phận câu với nhau (các dấu chấm, dấu hỏi, chấm than, chấm lửng) ở cuối câu hoặc các (dấu phẩy, chấm phẩy, gạch ngang). Khi đọc gặp những dấu câu này cần ngắt một quãng bằng khoảng thời gian phát âm một tiếng. Nếu kết thúc một đoạn để xuống dòng quãng nghỉ sẽ dài gấp đôi khoảng thời gian phát âm một tiếng. Bên cạnh những dấu kết thúc câu, hoặc ngăn cách các bộ phận câu còn có một số dấu câu có cách dùng đặc biệt cụ thể: dấu chấm lửng thể hiện lời nói ngắt quãng. Hướng dẫn học sinh ngắt quãng giữa một tiếng ví dụ: (Bỗng một tiếng "kít.... ít" làm cậu sững lại) (Tiếng việt 3 tập 1 - trang 54) trong trường hợp này hướng dẫn học sinh không nghỉ hơi mà phát âm kéo dài chỗ có dấu chấm lửng. Ngắt quãng giữa các tiếng hoặc từ ví dụ: (ông ơi..... cụ ơi! cháu xin lỗi cụ) (TV3 - Tập 1 trang 55). Trong trường hợp này hướng dẫn học sinh cần nghỉ ở chỗ có dấu chấm lửng một quãng bằng khoảng thời gian phát âm một tiếng. - Dấu chấm lửng làm dãn cách lời nói để chờ đợi một thông tin bất ngờ, ví dụ: Mặt trời mọc ở đàng... Tây! (TV3 tập 2 trang 52). Hướng dẫn học sinh nghỉ hơi giữa những cụm từ dài để được lời nói được mạch lạc rõ ràng ví dụ: khi dạy học sinh bài "chú sẻ và bông hoa bằng lăng" có câu: "mùa hoa này, băng lăng nở hoa mà không vui vì bé thơ, bạn của cây phải nằm viện". Nếu học sinh đọc liền một mạch không nghỉ giữa 2 vế câu "Bằng lăng nở hoa mà không vui/ vì bé thơ...." thì sẽ làm người nghe không hiểu rõ ý vì vậy giáo viên cần hướng dẫn để học sinh nghỉ hơi đúng thậm trí viết câu văn đó lên bảng, đánh dấu nghỉ hơi cho học sinh nhớ. Khi hướng dẫn học sinh cách nghỉ hơi giữa những cụm từ dài giáo viên cần lưu ý các em đọc tự nhiên, tránh cường điệu đọc nhát gừng. Cũng không quá chú ý hướng dẫn các em nghỉ hơi khi đọc mà là lời đọc của các em trở nên gượng gạo kém hiệu quả hơn. Giáo viên nên chép những câu văn khó đọc, khó phân biệt cách ngắt nghỉ lên bảng phụ và đọc mẫu cho các em. + Hướng dẫn học sinh luyện đọc thành tiếng và đọc thầm một cách có hiệu quả : - Luyện đọc thành tiếng : Giáo viên cần biết nghe học sinh đọc để có cách dạy thích hợp với từng học sinh khi đọc cá nhân ví dụ: học sinh đọc kém do trình độ chưa đạt (chuẩn) ở lớp dưới giáo viên cần kiên trì giúp đỡ và phụ đạo thêm không "bỏ qua" cũng không "nôn nóng" đòi hỏi học sinh phải đọc đúng ngay tại lớp. Có nhiều em khi đọc đến những tiếng khó các em thường đọc nhỏ lại lướt qua, nếu giáo viên không chú ý theo dõi phát hiện ra để hướng dẫn lại cho các em thì lần sau các em sẽ lại mắc phải. Ví dụ: đối với các từ chải chuốt, ngũng nguẩy (TV3 - tập 2). Sau khi phát hiện học sinh đọc sai giáo viên hướng dẫn học sinh phát âm lại và cho học sinh về luyện thêm ở nhà - và kiểm tra lại những em này vào giờ kiểm tra đầu giờ của tiết học sau. Học sinh đọc chưa chính xác do cấu tạo bộ máy phát âm còn khiếm khuyết (Học sinh bị khuyết tật về ngôn ngữ) thưòng hay đọc sai, đọc lẫn với các từ địa phương, giáo viên cần luyện tập riêng bằng phương pháp đặc biệt, phù hợp với từng đối tượng và giúp đỡ thêm ngoài giờ học. Học sinh đọc chưa đạt yêu cầu do còn thiếu ý thức hoặc ảnh hưởng thói quen (ê, a, liến thoáng...) giáo viên cần chỉ rõ hạn chế và tìm cách giúp đỡ học sinh khắc phục. Giáo viên cần biết gợi ý để học sinh khác nhận xét đúng chỗ "được" chỗ "chưa được" của bạn để bản thân học sinh vừa tự rút kinh nghiệm và đọc tốt hơn. + Luyện đọc thầm : Dựa vào yêu cầu đề ra ở mỗi bài giáo viên luyện kỹ năng đọc thầm cho học sinh với những cách làm thích hợp. ở lớp 3 các em đọc thầm để theo dõi bạn đọc và tự đọc thầm. Điều quan trọng là giáo viên phải kiểm tra, đánh giá được kết quả hoạt động đọc thầm của học sinh để giúp đỡ uốn nắn. Vì vậy khi yêu cầu đọc thầm giáo viên nên giao kèm nhiệm vụ nhằm định hướng đọc hiểu. Ví dụ: Đọc thầm để cho biết bài văn hoặc đoạn văn, đoạn thơ nói về ai hoặc những nhân vật nào hoặc đặt tên khác cho bài văn, đoạn văn, hoặc gạch dưới các từ ngữ chỉ màu sắc.... V/ Hiệu quả ỏp dụng : Trong thời gian một học kì thực hiện kết hợp các biện pháp trên, bước đầu đã thu được những kết quả sau: Kết quả kiểm tra định kì GHKII : Lớp Số lượng bài Giỏi Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % 3/3 30 14 46,7 11 36,7 5 16,6 0 C. KẾT LUẬN : I/ í nghĩa của đề tài : Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng, bậc học trang bị những kiến thức kỹ năng cơ bản để học tốt tiếp những bậc học sau và ứng dụng vào cuộc sống của các em sau này. Phân môn tập đọc trong môn học Tiếng việt là phân môn không thể thiếu, nó góp phần không nhỏ vào việc hình thành các kiến thức nền tảng cho các em. Vì vậy mỗi giáo viên cần có những biện pháp thích hợp để giúp cho đối tượng học sinh mình học được tốt hơn môn học này. Để góp phần dạy tốt phân môn tập đọc ở lớp 3 tôi đã mạnh dạn đề xuất các biện pháp. 1. Tổ chức tiết học hoạt động sôi nổi, gây hứng thú học tập cho học sinh. 2. Nâng cao chất lượng đọc mẫu của giáo viên. 3. Thực hiện tốt bước hướng dẫn học sinh đọc từng câu trong bài tập đọc. 4. Hướng dẫn học sinh biết cách nghỉ hơi đúng khi đọc. 5. Hướng dẫn luyện đọc thành tiếng và đọc thầm một cách có hiệu quả. II/ Khả năng ỏp dụng : - Đề tài : Một số biện phỏp nõng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp 3 cụ thể ỏp dụng đối với bất cứ giỏo viờn nào đang dạy lớp 3 ở trường TH-THCS Mỹ Xương . III/ Bài học kinh nghiệm : - Giúp đỡ học sinh lớp 3 học tốt môn tập đọc là cả một quá trình người giáo viên phải thực sự chú trọng, chịu khó đầu tư đúng mức vào việc giảng dạy, kết hợp với các phân môn chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn... và các môn học khác, giờ học khác. Trong quá trình dạy học tôi đã chú ý tích cực hoá quá trình học tập của học sinh kết hợp 5 biện pháp trên với một số biện pháp truyền thống. Số học sinh có hứng thú học tập với phân môn tập đọc này tăng lên, nhiều em đọc các bài tập đọc một cách trôi chảy, đúng hơn, hay hơn. - Phân môn tập đọc cũng trở thành môn học yêu thích hơn đối với các em học sinh, giáo viên cũng phấn chấn hơn, say mê hơn với giờ dạy. - Tuy nhiên với phân môn tập đọc người giáo viên cần phải thực hiện các biện pháp này kiên trì lâu dài trong suốt quá trình giảng dạy chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. - Kinh nghiệm này đã được giáo viên ủng hộ áp dụng, đặc biệt là với giáo viên khối 3. IV: Đề xuất, kiến nghị : * Đối với học sinh: - Luôn có ý thức tự luyện đọc ở nhà cũng như ở lớp. - Tìm thêm nhiều sách, báo đọc để năng cao kĩ năng đọc. * Đối với giáo viên: - Có sự tận tâm, nhiệt tình, yêu thương học sinh tạo cho các em sự say mê, thoải mái trong tiết học. - Nghiên cứu bài dạy thật chu đáo trước khi lên lớp. * Đối với ban giám hiệu: - Dành nhiều thời gian cho tổ thao giảng theo chuyên đề: Rèn kĩ năng đọc cho học sinh. Người viết Lờ Mỹ Dung MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU I- Lý do chọn đề tài: Trang 1. Cơ sở lớ luận Trang 2. Cơ sở thực tiễn Trang a. Thuận lợi Trang b. Khú khăn Trang II/ Mục đích nghiên cứu Trang III/ Giới hạn của đề tài Trang B. PHẦN NỘI DUNG Trang I/ Cơ sở lý luận Trang II/ Cơ sở thực tiễn Trang III/ Thực trạng việc dạy học phân môn tập đọc ở lớp 3 trường TH-THCS Mỹ Xương Trang IV/ Cỏc biện phỏp giải quyết vấn đề Trang V/ Hiệu quả ỏp dụng Trang C. KẾT LUẬN Trang I/ í nghĩa của đề tài Trang II/ Khả năng ỏp dụng Trang III/ Bài học kinh nghiệm Trang IV: Đề xuất, kiến nghị Trang
Tài liệu đính kèm: