Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục học sinh chưa ngoan

Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục học sinh chưa ngoan

A. Phần mở đầu

I. Lí do chọn đề tài

1. Cơ sở lí luận

Trong những năm qua, đất nước ta chuyển mình trong công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện, công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đang diễn ra từng ngày, từng giờ trên khắp đất nước hiện nay. Cùng với sự phát triển và đi lên của xã hội, mỗi chúng ta được sống trong môi trường văn minh, hiện đại hơn, nhưng kéo theo đó cũng có nhiều vấn đề nảy sinh làm ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống xã hội. Một trong những vấn đề đáng lo ngại hiện nay, đó là đạo đức học đường của một bộ phận học sinh đang bị xuống cấp. Điều này không những gây hoang mang cho dư luận xã hội mà còn gióng lên hồi chuông cảnh báo về lối sống đạo đức, nhân cách của giới trẻ ngày nay.

Giáo dục đạo đức (GDĐĐ) nhằm hướng tới mục đích đào tạo những con người không chỉ có tài mà còn có đức, để các em trưởng thành và trở thành người có ích cho xã hội. Vậy phải làm thế nào để GDĐĐ đạt hiệu quả. Chúng ta phải thấy rằng giáo dục đức dục khó hơn trí dục vì GDĐĐ không có giáo án sẵn. GDĐĐ không đứng độc lập mà được lồng ghép vào từng bài giảng, thấm sâu vào học sinh mỗi ngày. Không chỉ các môn xã hội mà các môn tự nhiên cũng mang tính giáo dục.

 

doc 21 trang Người đăng haiha30 Lượt xem 1780Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục học sinh chưa ngoan", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 LỜI NÓI ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đang diễn ra không ngừng như hiện hiện nay. Xã hội đòi hỏi phải có những người lao động mới, có bản lĩnh, có năng lực, chủ động sáng tạo, dám nghĩ dám làm thích ứng được với thực tiễn xã hội luôn thay đổi và phát triển. Nhưng thật đáng lo ngại khi hiện nay đạo đức học sinh lại có những biểu hiện xuống cấp tăng theo lứa tuổi và bậc học. Do tính hiếu động, sự lôi kéo của bạn bè xấu, sự thiếu quan tâm của gia đình, nhà trường và xã hội. Vô tình đã thu hút các em vào những việc làm không tốt, các em thường tỏ ra chai lì, không cảm thấy xấu hổ khi bị phê bình, có phản ứng gay gắt, không lành mạnh Những học sinh này thường biện hộ cho hành vi sai lệch của mình. Các em thường lừa dối cha mẹ, thầy cô, các em thường đánh nhau trong và ngoài nhà trường. Bắt chước những thói hư tật xấu của bạn bè xấu. Do đó sẽ dẫn đến tình trạng phạm pháp ở lứa tuổi thanh thiếu niên ngày càng tăng. Vì vậy,vấn đề giáo dục học sinh chưa ngoan trong nhà trường luôn luôn là đề tài nóng hổi, được sự quan tâm của toàn xã hội. Vì thế tôi chọn đề tài “Giáo dục đạo đức học sinh” để cùng chia sẻ trong cách giáo dục học sinh mong rằng sẽ giúp các em được tiến bộ một cách toàn diện trong xã hội hiện nay.
Để hoàn thành đề tài, ngoài sự cố gắng của bản thân còn có sự hỗ trợ của BGH, đồng nghiệp trong nhà trường, sự phối hợp của phụ huynh học sinh.
Trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót . Rất mong được sự đóng góp ý kiến của trường và các cấp lãnh đạo để việc giáo dục đạo đức học sinh mang lại kết quả khả thi hơn.
A. Phần mở đầu
I. Lí do chọn đề tài
1. Cơ sở lí luận
Trong những năm qua, đất nước ta chuyển mình trong công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện, công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đang diễn ra từng ngày, từng giờ trên khắp đất nước hiện nay. Cùng với sự phát triển và đi lên của xã hội, mỗi chúng ta được sống trong môi trường văn minh, hiện đại hơn, nhưng kéo theo đó cũng có nhiều vấn đề nảy sinh làm ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống xã hội. Một trong những vấn đề đáng lo ngại hiện nay, đó là đạo đức học đường của một bộ phận học sinh đang bị xuống cấp. Điều này không những gây hoang mang cho dư luận xã hội mà còn gióng lên hồi chuông cảnh báo về lối sống đạo đức, nhân cách của giới trẻ ngày nay. 
Giáo dục đạo đức (GDĐĐ) nhằm hướng tới mục đích đào tạo những con người không chỉ có tài mà còn có đức, để các em trưởng thành và trở thành người có ích cho xã hội. Vậy phải làm thế nào để GDĐĐ đạt hiệu quả. Chúng ta phải thấy rằng giáo dục đức dục khó hơn trí dục vì GDĐĐ không có giáo án sẵn. GDĐĐ không đứng  độc lập mà được lồng ghép vào từng bài giảng, thấm sâu vào học sinh mỗi ngày. Không chỉ các môn xã hội mà các môn tự nhiên cũng mang tính giáo dục. 
2. Cơ sở thực tiễn
 	Dù trong thời đại nào, xã hội nào thì cái đức vẫn luôn được coi trọng, như Bác Hồ đã nói “Có tài mà không có đức là người vô dụng”. Vì vậy việc giáo dục cái đức cho học sinh là một yêu cầu quan trọng, đang trở thành một vấn đề mà toàn xã hội rất quan tâm. Đó là những biểu hiện lệch lạc trong hành vi, nhân cách đạo đức như thiếu lễ độ với người lớn, tụ tập gây gổ đánh nhau, thói lười học, ham chơi, sống đua đòi và phạm pháp hình sự từ phía học sinh. Cũng chính vì sự chưa ngoan đó mà dẫn đến tình trạng học lực yếu, học lực kém, làm ảnh hưởng không ít đến những thành viên khác trong lớp học.
  Đánh giá thực trạng giáo dục, đào tạo Nghị quyết TƯ 2 khóa VIII nhấn mạnh: “Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước. Trong  những năm tới cần tăng cường giáo dục tư tưởng đạo đức, ý thức công dân, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội, văn hoá, thể thao phù hợp với lứa tuổi và với yêu cầu giáo dục toàn diện”.
Mặc dù nhà trường, thầy cô làm công tác giáo dục đặc biệt coi trọng và thực hiện hàng loạt các biện pháp, giải pháp nhưng tình trạng đạo đức của học sinh hiện nay vẫn xuống cấp trầm trọng, khiến cho xã hội hiện nay phải đau đầu về vấn đề này.  Xuất phát từ những lý do trên là một giáo viên giảng dạy trong nhà trường có nhiệm vụ nâng đỡ và uốn nắn để giúp các em học sinh có sự phát triển đúng đắn và tiến bộ một cách toàn diện qua từng ngày. Tôi mạnh đã chọn đề tài: “ Giáo dục học sinh chưa ngoan” làm đề tài nghiên cứu thực hiện trong năm học này.
2. Mục đích đề tài 
Nghiên cứu về việc giáo dục đạo đức học sinh chưa ngoan, giúp cho các nhà làm công tác giáo dục có phương pháp phù hợp để uốn nắn, giáo dục cho các em nhìn thấy được những khuyết điểm, những hành vi sai lầm để khắc phục sửa chữa. Qua đó giúp cho các em trở thành một người phát triển toàn diện sống có ích cho xã hội.
3. Giới hạn của đề tài
Giới hạn trong một sáng kiến kinh nghiệm tôi chỉ khảo sát nghiên cứu những học sinh của trường TH-THCS Mỹ Xương nơi tôi đang giảng dạy.
4. Kế hoạch thực hiện:
Công tác giáo dục đạo đức  học sinh ở trường còn có những hạn chế. Nếu thực hiện được  những biện pháp giáo dục hợp lý sẽ nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho  học sinh của nhà trường, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục một cách toàn diện.
5. Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp trò chuyện
+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp kiểm tra, đánh giá
+Tổ chức các hoạt động thi đua, tuyên dương, khen thưởng.
 + Phương pháp thu thập tài liệu có liên quan đến đề tài và lựa chọn những nội dung cần thiết để phục vụ cho đề tài.
B. Phần nội dung
I. Cơ sở lí luận
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Có tài mà không có đức thì là người vô dụng”. Người coi trọng mục tiêu, nội dung giáo dục đạo đức trong các nhà trường như: “Đoàn kết tốt”, “Kỷ luật tốt”, “Khiêm tốn, thật thà dũng cảm”, “Con người cần có bốn đức: cần - kiệm - liêm - chính, mà nếu thiếu một đức thì không thành người”.
*Một số khái niệm có liên quan đến đề tài:
a. Khái niệm về giáo dục
giáo dục là hoạt động hướng con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội.
b. Con đường giáo dục
Giáo dục được  thực  hiện chủ yếu qua hai con đường: Hoạt động dạy  học  trên lớp; hoạt động ngoài giờ lên lớp. 
c. Khái niệm về đạo đức
Đạo đức là một bộ phận của hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những qui tắc, nguyên tắc chuẩn mực xã hội. Nhờ đó con người tự giác điều chỉnh các hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, với hạnh phúc của bản thân của cộng đồng và sự tiến bộ xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã hội.
Đạo đức là phẩm chất quan trọng nhất của nhân cách, là nền tảng để xây dựng thế giới tâm hồn của mỗi con người. Vì vậy, ở bất cứ quốc gia nào, thời đại nào, việc giáo dục đạo đức cho thế hệ đang lớn lên cũng là trung tâm chú ý của các nhà lãnh đạo và các thành viên xã hội.
d.Thế nào là học sinh chưa ngoan?
Học sinh chưa ngoan là hậu quả của sự phá vỡ những mối liên hệ bình thường của học sinh với gia đình, nhà trường và xã hội. Trong ngôn ngữ thường ngày trẻ chưa ngoan còn được gọi là trẻ “khó dạy”, “ Chậm tiến”
e. Những dấu hiệu của học sinh chưa ngoan
Tính mâu thuẫn trong hành vi do những mâu thuẫn trong sự phát triển nhân cách tạo nên. Trí tuệ phát triển nhưng tình cảm hầu như không phát triển, hoặc ngược lại. Hay tầm hiểu biết rất hạn chế nhưng kinh nghiệm xấu trong cuộc sống hàng ngày lại rất phong phú.
Lập trường sống ích kỷ
Thái độ xung đột kéo dài đối với những người xung quanh.
Có những hành vi chống đối vô lối với giáo viên.
Có xu hướng giải quyết xung đột với bạn bè bằng vũ lực.
Có những hành động kỳ quặc, khiến cho lớp học luôn ở trạng thái  bất  ổn.
Có thái độ xem thường bạn bè, Thầy Cô...
Thường xuyên ăn nói thô tục...
Thường xuyên không tham gia vào các hoạt động học tập của lớp.
Tính không ổn định của các hứng thú, nguyện vọng lúc thế này lúc thế khác.
Luôn chống đối các tác động giáo dục.
Hay trốn học để chơi game.
II. Cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
Đối với học sinh trong quá trình hình thành thì trường học chính là nơi các em chính thức được học tập và rèn luyện một cách nghiêm túc nhất. Bước vào trường học mỗi học sinh được tạo ra cơ hội để tiếp thu giáo dục, ý thức đầy đủ về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với toàn bộ các hoạt động học tập rèn luyện của mình.
Trong môi trường mới các em tiếp thu và hình thành các quan hệ xã hội đa dạng, nhất là với bạn bè xung quanh và được phát triển có định hướng rõ ràng. Song, bên cạnh đó các em hầu như chưa thật sự nổ lực, phấn đấu để trở thành người học sinh toàn diện, mà bên cạnh những cái hay, cái đẹp, vẫn còn tồn tại những cái xấu, cái chưa hoàn hảo. Hay nói cách khác học sinh khá giỏi về học lực, tốt về đạo đức rất nhiều nhưng học sinh yếu về học lực, có đạo đức chưa tốt vẫn còn. Hầu như các em có đạo đức không tốt là những học sinh có hành vi đạo đức xuất phát từ những động cơ xấu, không theo một chuẩn mực đạo đức nào.
Các em thường lập thành một nhóm riêng không thích hoà đồng với mọi người, dửng dưng trước mọi hoạt động của lớp, của trường. Nhìn chung những học sinh này thường có những hành vi không tốt với mọi người như: quậy phá, chọc ghẹo bạn bè, hổn hào với thầy cô, thích nghỉ học để chơi game, không tuân theo nội qui của trường, của lớp, thậm chí đánh nhau với bạn bè và còn rất nhiều những thói hư tật xấu khác.
Theo tôi những hành động trên là những hành động có ý thức, nhưng do nhận thức bị sai lệch. Vì thế trách nhiệm của người thầy không kém phần quan trọng, nên xem việc giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt chưa ngoan là công việc quan trọng. Muốn thực hiện tốt việc này đòi hỏi người thầy phải kiên trì, bền bỉ, khéo léo để từng bước uốn nắn giúp đỡ cho các em trở thành một học sinh ngoan, có tư cách, có đạo đức tốt.
III. Thực trạng và những mâu thuẫn
Trường có đạt được nhiều thành tích là nhờ vào sự cố gắng, nỗ lực của thầy và trò. Giáo viên dạy giỏi là nhờ chúng ta có được những học sinh giỏi. Nhưng giáo viên dạy giỏi chưa chắc học sinh của mình giỏi hết được. Vì sao? Vì bên cạnh những học sinh ngoan, học giỏi còn có những học sinh không chịu học, không ham học làm ảnh hưởng thi đua của trường, của lớp - đó là những học sinh chưa ngoan.
 Các trường học hiện nay dạy đạo đức không đều và không thường xuyên trong suốt năm học, chủ yếu thông qua các cuộc thi đua, hầu hết chỉ mang tính hình thức. Quan hệ thầy trò cũng khác trước nhiều, giáo vi ... ịu ngọt đối với học sinh chưa ngoan này. Tuy nhiên cũng có đôi lúc ta cũng phải cứng rắn, chẳng hạn trong vấn đề xử phạt "mềm nắn, rắn buông".
Giáo viên cũng nên thường xuyên trò chuyện, quan tâm, gần gũi, nhắc nhở, động viên học sinh học tập, có thái độ thân thiện với học sinh. Tạo cho học sinh nhìn mình là cảm thấy gần gũi, chứ không phải gặp mình là sợ la, sợ bị mắng. Như vậy học sinh sẽ có tâm lý bất cần " Thầy cô kệ thầy cô, ta là ta". Ta phải làm sao tạo cho học sinh có cảm giác là giáo viên như là một người bạn thân, bạn tâm tình, sẵn sàng lắng nghe ý kiến của mình, khi mình vui, buồn đều có thể chia sẻ với thầy cô, khích lệ mình khi mình khó khăn trong gia đình, bế tắc trong học tập.
Giáo viên cần hướng dẫn cụ thể những việc mà học sinh hỏi, tránh để học sinh cảm thấy mình lạc lỏng, cảm giác vì mình học dở nên không ai quan tâm, ai cũng khi dễ mình, không ai thèm chơi, để ý đến mình.
Cần phải giáo dục từng bước, chậm rãi từ những công việc nhỏ. Chẳng hạn phải thức sớm một chút để không phải đi trễ, mình học yếu thì nên chịu khó học, siêng làm bài tập hơn các bạn, khi nào mệt thì nên giải lao để tinh thần thoải mái rồi làm tiếp, không nên cố gắng quá sức. Giáo viên không nên giáo dục ào ạt chưa hỏi han lý do gì hết mà đã la mắng học sinh cho dù học sinh đó vi phạm nhẹ, như vậy sẽ mất hiệu quả giáo dục. Bởi vì đấy là những học sinh có tính tình ương ngạnh, tâm lý bất cần, học hay không đối với bản thân học sinh không quan trọng mà học sinh vào lớp là chỉ được "lãnh lương" hàng ngày, không phải làm những việc nặng nhọc bằng tay chân ở nhà.
Tìm hiểu sở thích, năng khiếu: Hầu như bất kỳ một học sinh nào đều có một năng khiếu nhất định, năng khiếu  này có thể do  bẩm sinh, do rèn luyện, vấn đề của người Thầy là thấy được năng  khiếu ấy và phát  huy sở trường của các em nhằm lấy nó làm động lực kéo theo  cho học sinh cố gắng hơn ở những mặt còn kém.
Chúng ta phải tác động vào động cơ học tập, để các em này thấy rõ tầm quan trọng của việc học. Có thể đưa ra một số tranh ảnh về nạn thất học - chỉ mới mấy tuổi đầu không được đến trường, phải làm những việc nặng nhọc của người lớn rồi lại bị bạn bè khinh thường, xa lánh, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Ngược lại những em có học thì làm việc thuận lợi dễ dàng, càng ngày càng tiến thân, bạn bè ngưỡng mộ phải trầm trồ khen ngợi, cha mẹ được nở mày, nở mặt.
Khi các em đã nhận thức được vai trò của việc học tập đối với bản thân, gia đình và xã hội thì sẽ có động cơ học tập và ngày càng trở nên tiến bộ.
Học sinh bây giờ muốn khẳng định mình, không thích bị áp đặt và sự quan tâm không đúng cách. Do đó cần phải lắng nghe những tâm tư, những thay đổi, những nguyện vọng của học trò và con em mình. Bằng tình thương yêu, sự quan tâm thôi thì chưa đủ mà phải hiểu học trò và con em mình cần gì, thay đổi như thế nào, tính cách ra sao để có cái nhìn tổng quan và toàn diện hơn nhằm đưa ra những biện pháp giáo dục phù hợp, hiệu quả và thiết thực hơn.
Giúp các em biết cách thức lựa chọn phương pháp học tập, coi trọng tự học và biết xây dựng các tài liệu chuyên môn phục vụ cho học tập khi nắm được cách thức tiếp nhận tri thức các em trở nên ứng thú hơn trong học tập.
Thầy Cô giáo dục các em không chỉ bằng lời nói mà bằng cả hành động, cử chỉ, thái độ, tác phong hàng ngày... Hãy cảm hóa, giáo dục các em bằng cả tấm lòng của người Thầy, người cha, người chị, người mẹ... Hãy nhìn các em với ánh mắt nhìn về tương lai, không nên dựa vào các hành vi nhất thời của các em mà đánh giá cả bản chất con người các em.
Học sinh chúng ta chỉ là những cành cây non, đang muốn vươn lên trở thành cành cây vững chắc, hãy tạo điều kiện cho các em thể hiện mình, vươn lên nơi có ánh sáng vững bền, hãy giáo dục các em bằng thái độ thân thiện và tích cực.
Phối hợp với các ban ngành, đoàn thể trong nhà trường để gắn các em vào những hoạt động mà các em ưa thích, hoặc chia sẻ, giúp đỡ các em những khó khăn. Kêu gọi và yêu cầu các em khác trong lớp biết quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ bạn mình (là những học sinh “chưa ngoan”), không nên xem thường và cô lập bạn, hoặc phê phán một cách thái quá hay gay gắt dẫn đến mâu thuẫn chỉ vì thi đua của lớp quá thấp. Bên cạnh đó cần quan sát, theo dõi học sinh “chưa ngoan” hằng ngày về mọi mặt để có cách giáo dục hợp lí tránh làm tổn thương đến tâm lý và tình cảm của các em.
Bản thân giáo viên cũng nên luôn luôn điều chỉnh hành vi, ngôn ngữ, cách cư xử, cách suy nghĩ, cách đánh giá những sự việc trong cuộc sống, những thói quen trong sinh hoạt để có thể không ngừng hoàn thiện làm gương cho học sinh. Cần nhận thức rõ, giáo dục một con người là một quá trình không có điểm cuối cùng. Vì thế không bao giờ được chủ quan, nóng vội, trước mọi sai lầm của học sinh GVCN cần hết sức bình tĩnh, bao dung và độ lượng để xem xét, xử lí vấn đề. 
- Đối với gia đình:
 Cần phải luôn là chỗ dựa vững chắt cho các em, giúp các em không cảm thấy cô đơn, lẽ loi, hụt hẩng. Gia đình cần nhận thức đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của mình trong việc giáo dục con cái. Không nên quá lo về kinh tế mà bỏ quên việc giáo dục con em mình cũng đừng nên vì lợi ích nhất thời mà đẩy các em vào đời quá sớm, phải thường xuyên liên lạc với nhà trường, nắm tình hình học tập của con em mình để từ đó động viên, khích lệ con khi cần thiết. Những thành viên trong gia đình cần là tấm gương tốt cho các em noi theo.
-Đối với xã hội: 
Cần có biện pháp quản lí chặt chẽ giờ giấc hoạt động của các tiệm game.
Cần quan tâm đến ngành giáo dục nhiều hơn nữa, kết hợp chặt chẽ với ban ngành địa phương làm lành mạnh, trong lành môi trường sống, không còn những tệ nạn, những thói hư tật xấulàm ảnh hưởng đến thế hệ trẻ mai sau.
C. KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác
Để có thể giáo dục tốt các em học sinh chưa ngoan, cần phải có sự phối hợp cả gia đình, nhà trường và xã hội. Vai trò giáo dục của gia đình và xã hội giữ vị trí quan trọng, vai trò giáo dục của nhà trường mang yếu tố quyết định giúp các em có thể có những định hướng đúng đắn, để sau này trở thành những người con có ích cho xã hội, hiếu thảo trong gia đình và chính các em sẽ là tấm gương tốt cho các em học sinh khác mà người Thầy sẽ luôn lấy các em ra làm ví dụ khi giáo dục các học sinh khác.
Với những vấn đề đã nêu trên đây tôi hy vọng rằng công tác giáo dục học sinh “chưa ngoan” sẽ có những bước chuyển biến mới. Tuy nhiên việc giáo dục nhân cách cho học sinh không thể thành công trong một sớm một chiều, bởi giáo dục là cả một quá trình xuyên suốt và không thể chỉ thực hiện bởi giáo viên chủ nhiệm, BGH và các tổ chức đoàn thể trong trường. Chính vì vậy chỉ có sự gắn kết của các bậc phụ huynh, các tổ chức xã hội cùng quan tâm ủng hộ nhà trường và tham gia công tác giáo dục học sinh “chưa ngoan” mới có thể tin tưởng đạt được kết quả tích cực và bền vững.
Sự tiến bộ của các em luôn là hạnh phúc của mỗi gia đình, là sự mong chờ của tất cả ngành giáo dục và là sự phát triển của toàn xã hội. 
II. Khả năng áp dụng
Nếu sáng kiến thành công nó sẽ giúp cho những người làm công tác giáo dục (không riêng gì trường tôi đang giảng dạy) có các phương pháp phù hợp để giáo dục các học sinh có đạo đức chưa ngoan trở nên ngoan hơn. Đồng thời đây cũng là tài liệu tham khảo cho các bậc phụ huynh có con em chưa ngoan. Từ đó thấy được việc giáo dục học sinh trong giai đoạn hiện nay là rất cần sự chung tay góp sức của cả cộng đồng chứ không riêng gì ngành giáo dục.
III. Bài học kinh nghiệm, hướng phát triển
Trong quá trình thực hiện viết sáng kiến kinh nghiệm với đề tài nghiên cứu giáo dục học sinh chưa ngoan, vì nguồn tư liệu tham khảo còn hạn chế và đối tượng nghiên cứu còn hạn hẹp, bản thân còn hạn chế về kinh nghiệm giảng dạy chắc chắn sẽ chưa thể đưa ra hết được những phương pháp tốt nhất để giáo dục học sinh chưa ngoan. Trong thời gian giảng dạy tôi sẽ không ngừng học hỏi, nghiên cứu để có thể sẽ mở rộng được phạm vi đề tài nghiên cứu.
IV. Đề xuất, kiến nghị 
Đối với Bộ Giáo dục & Đào tạo
 Tăng cường công tác quản lý, tuyên truyền chỉ đạo hoạt động giáo đạo đức cho học sinh, cho người học toàn xã hội, chịu trách nhiệm xây dựng, thống nhất kế hoạch,  mục tiêu, nội dung chương trình phù hợp với đặc điểm người học, trình độ giáo dục, điều kiện vùng miền để ngăn ngừa và phòng chống các hiện tượng trái với chuẩn mực của xã hội. 
Chương trình sách giáo khoa, đặc biệt là môn giáo dục công dân cần phải có những thay đổi quyết liệt hơn nữa. Cần dạy cho HS những giá trị đạo đức cơ bản của con người thay cho quá nhiều kiến thức triết học, hàn lâm, thiếu vắng việc hình thành những thói quen đạo đức và kỹ năng sống đúng đắn. 
- Đối với  Sở Giáo dục & Đào tạo
 Chỉ đạo các trường cụ thể hoá kế hoạch giáo dục đạo đức truyền thống từng năm học. Hàng năm nên tổ chức các buổi hội thảo, chuyên đề về giáo dục đạo đức để các trường có thể học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau .
Tổ chức các lớp bồi dưỡng cho giáo viên về kỹ năng vận dụng bài học vào giáo dục đạo đức. 
- Đối với nhà trường
Để hiệu quả hơn, công tác giáo dục tại các trường học cần làm tốt khâu phối hợp giữa gia đình, nhà trường xã hội nhằm từng bước ngăn ngừa và hạn chế đến mức thấp nhất những biểu hiện vi phạm đạo đức xảy ra... 
 Thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức để giáo dục cho học sinh, nhằm thu hút người học tham gia học tập rèn luyện một cách tích cực.
 Việc kiểm tra đánh giá kết quả của hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh phải đảm bảo công bằng, công khai, khen thưởng, phê bình, nhắc nhở kịp thời.
Nhà trường cần tăng cường hơn nữa việc giáo dục đạo đức thông qua giờ chào cờ đầu tuần, thông qua các giờ học, thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp và các buổi giao lưu nhằm tạo được nhiều sân chơi để thu hút các em tham gia.
Phát huy hơn nữa vai trò của Đoàn thanh niên, đội thiếu niên trong giáo dục đạo đức học sinh.
Tạo điều kiện và hỗ trợ kịp thời để giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn thực hiện tốt chương trình giảng dạy cùng lúc với giáo dục đạo đức học sinh.
- Đối với giáo viên
 Cần có phương pháp giáo dục khoa học và phù hợp với từng đối tượng, từng hoàn cảnh, từng bối cảnh cụ thể. Nắm bắt kịp thời các thông tin trong và ngoài trường để biết rõ sự phát triển mọi mặt trong cuộc sống để có sự linh động trong hành động.
Phải coi trọng việc giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua các giờ dạy, đặc biệt phải coi trọng giờ giáo dục công dân và các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU.
I/ Lý do chọn đề tài.
1. Cơ sở lí luận
2. Cơ sở thực tiễn
II/Mục đích đề tài
III/giới hạn đề tài
IV/Phương pháp nghiên cứu
 B.NỘI DUNG.
I/Cơ sở lý luận.
II/Cơ sở thực tiển.
III/Thực trạng và những mau thuẫn
 C.KẾT LUẬN.
I/ Ý nghĩa của đề tài đối với công tác 
II/Khả năng áp dụng
III/ Bài học kinh nghiệm, hướng phát triển
IV. Đề xuất, kiến nghị

Tài liệu đính kèm:

  • docGiao duc hoc sinh chua ngoan.doc