Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học nêu vấn đề

Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học nêu vấn đề

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Ý nghĩa về mặt lý luận:

Mục tiêu lớn của ngành Giáo dục đặt ra là: Đổi mới phương pháp dạy học hướng tới đào tạo con người làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại có tư duy sáng tạo và kỹ năng thực hành giỏi. Các mục tiêu lớn đã được pháp chế hóa trong Luật Giáo dục điều 24/2: “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.

 Mục tiêu của chương trình THCS mới nhấn mạnh tới sự hình thành và phát triển các năng lực chủ yếu của học sinh nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, năng lực hành động, năng lực thích ứng , năng lực giao tiếp, năng lực tự khẳng định.

 Dạy học ngữ văn theo hướng tổ chức hoạt động phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh đang là yêu cầu hàng đầu của sự đổi mới.

 Từ năm 1996 cho đến nay đã có không ít các giáo sư tiến sỹ nghiên cứu biên soạn các tài liệu về phương pháp dạy học văn trong đó đặc biệt chú ý phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề( gọi tắt là dạy học nêu vấn đề): Tác giả Phan Trọng Luận- Vũ Nho- Cao Đức Tiến, Giáo sư Đặng Vũ Hoạt. Tài liệu BDTX chu kỳ 1997- 2000 của NXBGD; Tài liệu BDTX chu kỳ III( 2004-2007); mới đây ( Tháng 7 năm 2007) cuốn “ Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục trung học môn Ngữ văn” của NXB GD- Vụ GD trung học đã dề cập đến vấn đề: Dạy học nêu vấn đề trong giảng văn. Có thể nói, dạy học nêu ván đề trong môn Ngữ văn THCS không phải là phương pháp mới đối với giáo viên. Điều đáng chú ý là việc tập dượt cho học sinh phát hiện và giải quyết vấn đề không chỉ thuộc phạm trù phương pháp dạy học mà đã trở thành một mục tiêu giáo dục bảo đảm cho học sinh thích ứng được với sự phát triển của xã hội hiện đại.

 

doc 26 trang Người đăng haiha30 Lượt xem 1152Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học nêu vấn đề", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Danh mục chữ cái viết tắt
STT
Chữ cái viết tắt
Giải nghĩa chữ cái viết tắt
1
BDTX
Bồi dưỡng thường xuyên
2
GD
Giáo dục
3
GS
Giáo sư
4
GV
Giáo viên
5
GVG
 Giáo viên giỏi
6
KHKT
Khoa học kỹ thuật
7
KS
Khảo sát
8
MĐ
Mức độ
9
NVĐ
Nêu vấn đề
10
NXB 
Nhà xuất bản 
11
SGK
Sách giáo khoa
12
THCS
Trung học cơ sở
13
VD
Ví dụ
PHẦN I: Đặt vấn đề
ý nghĩa về mặt lý luận:
Mục tiêu lớn của ngành Giáo dục đặt ra là: Đổi mới phương pháp dạy học hướng tới đào tạo con người làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại có tư duy sáng tạo và kỹ năng thực hành giỏi. Các mục tiêu lớn đã được pháp chế hóa trong Luật Giáo dục điều 24/2: “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
	Mục tiêu của chương trình THCS mới nhấn mạnh tới sự hình thành và phát triển các năng lực chủ yếu của học sinh nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, năng lực hành động, năng lực thích ứng , năng lực giao tiếp, năng lực tự khẳng định.
	Dạy học ngữ văn theo hướng tổ chức hoạt động phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh đang là yêu cầu hàng đầu của sự đổi mới.
	Từ năm 1996 cho đến nay đã có không ít các giáo sư tiến sỹ nghiên cứu biên soạn các tài liệu về phương pháp dạy học văn trong đó đặc biệt chú ý phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề( gọi tắt là dạy học nêu vấn đề): Tác giả Phan Trọng Luận- Vũ Nho- Cao Đức Tiến, Giáo sư Đặng Vũ Hoạt... Tài liệu BDTX chu kỳ 1997- 2000 của NXBGD; Tài liệu BDTX chu kỳ III( 2004-2007); mới đây ( Tháng 7 năm 2007) cuốn “ Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục trung học môn Ngữ văn” của NXB GD- Vụ GD trung học đã dề cập đến vấn đề: Dạy học nêu vấn đề trong giảng văn. Có thể nói, dạy học nêu ván đề trong môn Ngữ văn THCS không phải là phương pháp mới đối với giáo viên. Điều đáng chú ý là việc tập dượt cho học sinh phát hiện và giải quyết vấn đề không chỉ thuộc phạm trù phương pháp dạy học mà đã trở thành một mục tiêu giáo dục bảo đảm cho học sinh thích ứng được với sự phát triển của xã hội hiện đại.
ý nghĩa về mặt thực tiễn:
Vấn đề tìm tòi sáng tạo những con đường để phát huy chủ thể học sinh trong dạy học nói chung trong môn Ngữ văn nói riêng đã được chú ý trong suốt mấy chục năm qua. Dạy học nêu vấn đề được vận dụng trong môn Ngữ văn có nhiều ưu điểm nổi bật. Song có nhiều giáo viên nhìn nhận đánh giá không đúng về dạy học nêu vấn đề có thiên hướng đối lập, tách biệt với các kiểu dạy học truyền thống. Còn có những ngộ nhận giữa câu hỏi thường với câu hỏi nêu vấn đề... Dạy học nêu vấn đề là kiểu dạy học hiện đại đáp ứng được nhiệm vụ dạy học trong thời kỳ bùng nổ thông tin và phát triển của KHKT đó là không chỉ dạy học sinh tri thức mà còn dạy cách làm ra tri thức, không chỉ dạy học sinh tiếp nhận ghi nhớ thông tin mà còn dạy học sinh chủ động lựa chọn thông tin xử lý thông tin hiệu quả.
Dạy học nêu vấn đề phù hợp với xu thế của giáo dục hiện đại. Vận dụng dạy học nêu vấn đề trong bộ môn Ngữ văn là phương pháp tích cực hóa các hoạt động học tạp của học sinh giúp cải thiện tình trạng học sinh chán học văn, nhằm kích thích hứng thú học tập ở học sinh.
Mục đích nghiên cứu:
Vận dụng dạy học nêu vấn đề trong dạy học môn Ngữ văn nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy học bộ môn khắc phục tình trạng học sinh không thích học văn hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng các phương pháp: Điều tra, nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu thực trạng việc vận dụng dạy học nêu vấn đề trong dạy học Ngữ văn ở THCS, phương pháp phân tích, tổng hợp....
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng: Học sinh bậc THCS
 Phạm vi: Các giờ dạy học văn bản môn Ngữ văn tại trường THCS Thanh Hà- Huyện Thanh Ba- Tỉnh Phú Thọ.
PHần II: Giải quyết vấn đề
1.Cơ sở lý luận:
1.1. Khái niệm dạy học nêu vấn đề: 
Dạy học nêu vấn đề là một hệ thống tình huống có ván đề liên kết với nhau và phức tạp dần lên mà qua giải quyết các tình huống đó học sinh với sự giúp đỡ của thầy cô sẽ nắm được nội dung của môn học, cách thức học môn học đó và phát triển cho mình những đức tính cần thiết để sáng tạo trong khoa học và trong cuộc sống.
	1.2. Vấn đề, tình huống có vấn đề, câu hỏi nêu vấn đề:
GS Phan Trọng Luận trong cuốn giáo trình: “ Phương pháp dạy học văn” xuất bản năm 1998 có nêu: Tác phẩm nào cũng có vấn đề cả nhưng không phải bất cứ vấn đề nào trong tác phẩm cũng tự nhiên trở thành tình huống có vấn đề đối với chủ thể người học.
*Vấn đề là gì? Vấn đề được định nghĩa như là mâu thuẫn giữa sự hiểu biết và không hiểu biết, nó chỉ được giải quyết bằng con đường tìm kiếm lời giải đáp cho những câu hỏi đã nảy sinh ra.
Vấn đề trong tác phẩm văn chương là mâu thuẫn giữa tri thức văn học, phương thức phân tích cắt nghĩa, bình giá tác phẩm đã có ở học sinh với các giá trị nội dung tư tưởng và giá trị thẩm mĩ cần tìm của tác phẩm. Mâu thuẫn này chỉ được giải quyết bằng những nỗ lực hoạt động sáng tạo và cảm xúc thẩm mỹ của học sinh.
Giáo viên muốn áp dụng dạy học nêu vấn đề trước hết phải phát hiện vấn đề tiềm tàng trong tác phẩm văn học từ đó tạo ra tình huống có vấn đề thu hút sự hưởng ứng của học sinh chuẩn bị cho các hoạt động tiếp theo của quá trình dạy học nêu vấn đề.
* Tình huống có vấn đề:
Là tình huống trong đó chủ thể nhận thức có trạng thái tâm lý đặc biệt: cảm thấy có cái “ khó” trong nhận thức hay nói cách khác có mâu thuẫn nhận thức giữa cái đã biết và cái chưa biết đồng thời có mong muốn giải quyết mâu thuẫn bằng cách huy động những cái đã biết tạo ra phương thức hành động mới để đạt được hiểu biết mới. 
* Câu hỏi nêu vấn đề:
- Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi nhằm xác định rõ vấn đề và tạo ra tình huống có vấn đề. Câu hỏi nêu vấn đề cần phải làm rõ được các vấn đề tiềm ẩn trong tác phẩm, gây hứng thú cho học sinh động viên khuyến khích học sinh giải quyết vấn đề đã nêu.
Câu hỏi nêu vấn đề làm rõ hoặc đặt ra được vấn đề người nghe vào tình huống có vấn đề.
* Mối quan hệ của vấn đề, tình huống vấn đề và câu hỏi nêu vấn đề.
- Vấn đề trong tác phẩm văn chương nào cũng có. Có những vấn đề lớn bao gồm nhiều vấn đề trung bình, mỗi vấn đề trung bình lại bao gồm một số vấn đề nhỏ hơn, giản đơn hơn. Phát hiện vấn đề đòi hỏi ở người tiến hành một trình độ cao của sự phát triển trí tuệ và sự thành thục của kỹ năng. Từ chỗ tìm được vấn đề đến chỗ xây dựng được tình huống có vấn đề là một yêu cầu cao về nghệ thuật sư phạm đòi hỏi giáo viên phải am tường tác phẩm, am tường tâm lý học sinh, nắm chắc năng lực trình độ học sinh mới có thể biến vấn đề thành tình huống có vấn đề.
Câu hỏi nêu vấn đề là phương tiện quan trọng để người giáo viên đưa vấn đề vào tình huống có vấn đề.
Như vậy, vấn đề có sẵn trong đơn vị bài học còn tình huống có vấn đề, câu hỏi có vấn đề là sản phẩm của nghệ thuật sư phạm. Vì thế cùng một bài học người giáo viên có thể dạy theo các phương pháp truyền thống không liên quan gì đến dạy học nêu vấn đề. Hoặc có nhiều người, có giờ thất bại. Việc thành công hay thất bại phụ thuộc vào việc đặt câu hỏi nêu vấn đề và xây dựng tình huống có vấn đề.
2. Thực trạng của việc dạy học nêu vấn đề trong bộ môn Ngữ văn hiện nay:
ở Việt Nam, dạy học nêu vấn đề có tới 40 năm cọ xát với thực tế song nó chưa được vận dụng thực sự có hiệu quả trong giảng dạy môn Ngữ văn. Năm học 2009- 2010 Tôi đã tiến hành khảo sát 18 giờ dạy học Ngữ văn của giáo viên trong trường . Kết quả cụ thể như sau:
Tổng số 
 giờ
Vận dụng phương pháp
 nêu vấn đề 
 Không vận dụng 
phương pháp nêu vấn đề 
Ghi chú
Tổng số
 %
Tổng số
 %
 18
 11
 61 %
 07
 39%
Trong số giờ vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề: 11 
- Số giờ GV phát hiện vấn đề, tự mình tạo ra tình huống có vấn đề và tự mình giải quyết: 06 ( Đây là mức độ thấp nhất của dạy học nêu vấn đề, lý do là nhận thức của học sinh không đồng đều, hạn chế về thời lượng).
- Số giờ giáo viên nêu vấn đề tổ chức cho học sinh giải quyết một phần của vấn đề : 03
- Số giờ GV phát hiện vấn đề tạo ra tình huống có vấn đề tổ chức học sinh giải quyết toàn bộ vấn đề: 02
- Số giờ GV gợi ý để học sinh phát hiện vấn đề, tự nêu tình huống có vấn đề và tự giải quyết trọn vẹn vấn đề( mức độ cao nhất của dạy học nêu vấn đề): 0
Trong giáo viên vẫn còn có những ngộ nhận về dạy học nêu vấn đề có những ý kiến nhìn nhận chưa thỏa đáng về dạy học nêu vấn đề. Có xu hướng tuyệt đối hóa dạy học nêu vấn đề đối lập nó với các phương pháp dạy học truyền thống nên vận dụng chưa thật thỏa đáng.
3. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề của dạy học nêu vấn đề.
3.1. Các mức độ dạy học nêu vấn đề:
- MĐ 1: Giáo viên phát hiện vấn đề, tự mình tạo ra tình huống có vấn đề và cũng tự mình giải quyết.
- MĐ 2: GV nêu vấn đề sau đó tổ chức học sinh giải quyết một phần của vấn đề.
- MĐ 3: GV phát hiện vấn đề tạo ra tình huống có vấn đề tổ chức học sinh giải quyết toàn bộ vấn đề đã đặt ra.
- MĐ 4: GV gơi ý để học sinh tự phát hiện vấn đề tự nêu lên tình huống có vấn đề và tự giải quyết trọn vẹn vấn đề.
3.2. Các nguyên tắc của dạy học nêu vấn đề:
3.2.1. Đảm bảo tổ chức tài liệu học tập đi từ chung đến riêng, đi từ nguyên lý đến vận dụng.
3.2.2. Đảm bảo cho việc dạy học bắt đầu từ tình huống có vấn đề mà bằng tri thức đã biết, con đường quen thuộc học sinh tìm ra tri thức mới, cách thức mới.
3.2.3. Đảm bảo cho học sinh nắm bắt được những khái niệm mới và nguyên lý mới thông qua hoạt động tự lực giải quyết vấn đề học tập chứa đựng những khái niệm và nguyên lý đó.
3.2.4. Đảm bảo cho học sinh nắm được tri thức và cách thức hành động trí tuệ thông qua các bài tập vận dụng.
3.2.5. Đảm bảo cho học sinh có thủ thuật và cách thức hành động trí tuệ để giải quyết được các vấn đề đặt ra trong các tình huống có vấn đề.
3.2.6. Đảm bảo cho học sinh thu được các tín hiệu ngược dòng.
3.2.7. Đảm bảo giới thiệu cho học sinh nguồn thông tin cần thiết hướng dẫn họ phân tích, khai thác những nguồn thông tin đó.
3.3.Quy trình của dạy học nêu vấn đề:
a. Học sinh được đưa vào tình huống có vấn đề.
b. Phân tích tình huống có vấn đề.
- Xác định cái chưa biết
- Huy động vốn tri thức đã có ở học sinh để tìm ra cái chưa biết( các kiến thức, các kỹ năng).
c. Đưa ra giả thuyết
d. Chứng minh giả thuyết: Có thể chứng minh khẳng định giả thuyết đưa ra là đúng. Nhưng cũng có thể chứng minh rằng giả thuyết đó sai để đi đến giả thuyết mới và lại tiếp tục chứng minh cho đến khi đúng.
đ. Trình bày lời giải đáp.
e. Kiểm tra lời giải đáp
g. Kết luận vấn đề.
4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Dạy học nêu vấn đề có thể vận dụng ở tất cả c ... 
 Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao
-->“Nhẵn nhụi” gợi cảm giác về một sự trơ phẳng lì, bất cận nhân tình, sự thiếu tự nhiên tỉa tót thái quá--> bộc lộ tính cách trai lơ.
--> “ bảnh bao”: Thường dùng để khen áo quần trẻ em chứ ít dùng cho người lớn, ở cái tuổi “ ngoại tứ tuần” mà tỉa tót công phu, cố tô vẽ cho mình ra dáng trẻ cho ra vẻ thư sinh phong lưu đó là cái kệch cỡm tính cách trai lơ đàng điếm => Thái độ của tác giả đả kích ngầm sâu cay khinh bỉ và căm phẫn sâu sắc bọn buôn người.
+ Cử chỉ:
 Trước thầy sua tớ lao xao
 ..........................................
 Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
-Hình ảnh “ Trước thầy sau tớ lao xao” gợi lên cái trật tự thầy- tớ mà hắn cố sắp đặt để cho ra dáng một kẻ thư sinh nhưng lại láo nháo, ô hợp, chẳng còn danh giới thầy- tớ nữa, lộn xộn ầm ĩ cá mè một lứa.
- Nhảy lên ngồi chiễm chệ, thiếu lịch sự. Ghế trên là vị trí trang trọng dành cho các bậc cao niên, huynh trưởng đáng kính, kẻ đi hỏi vợ là hàng con cái mà lại “ ngồi tót” thì thật là chướng mắt--> sự vô lễ, thiếu văn hóa.
--> Hành động thói quen của y- thói quen của kẻ vô học kệch cỡm giả dối, lưu manh
--> Đó là một kẻ vô học kệch cỡm giả dối, lưu manh.
-Cử chỉ xem hàng, mặc cả, định giá.
- Những từ tác gải sử dụng chọn lọc rất dắt: “ đắn đo”, “ép”, “ thử”, “ cò kè”, “ bớt”, “ thêm”, “ giờ lâu ngã giá”...
- “ Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường’
Không hề có sự mâu thuẫn từ đầu đến cuối hắn vẫn là kẻ vô học hợm của giả dối bất nhân.
- Lúc đầu hắn “ ngồi tót sỗ sàng” là vì hắn nghĩ hắn có tiền chẳng coi ai ra gì, còn lúc mua bán mặc cả hắn dùng những lời lẽ hoa mĩ để đặt câu hỏi giá hàng 
“ đắn đo”, “cò kè”, “ thêm”, “bớt”... mục đích hạ giá hàng xuống thấp nhất để làm sao có lợi nhất, hắn lạnh lùng vô cảm trước cảnh ngộ của Thúy Kiều--> Bản chất con buôn xảo quyệt của hắn, bản chất của một kẻ bất nhân mua bán người lọc lõi của hắn được bộc lộ thật rõ, bản chất ấy từng lúc bị bóc trần.
=> Mã Giám Sinh hiện lên qua ngôn ngữ miêu tả trực diện của tác giả. Hình ảnh Mã Giám Sinh được miêu tả bằng nét bút hiện thực hoàn chỉnh cả về diện mạo và tính cách. Mã Giám Sinh được khắc họa thật cụ thể, sinh động đồng thời mang ý nghĩa khái quát về một loại người giả dối vô học, bất nhân vì tiền.
--> Thái độ của Nguyễn Du căm phẫn lên án thông qua việc miêu tả đả kích sâu cay loại người giả dối vô học bất nhân vì tiền. Đó là một trong những nội dung nhân đạo của đoạn trích.
2. Hình ảnh Thúy Kiều:
- Kiều dù quyết định bán mình chuộc cha cứu gia đình khỏi cơn tai biến, nàng ý thức được nhân phẩm nên khi bị xem là món hàng để tên họ Mã “ đắn đo”, “cân”, “ép”, “ thử”... nàng buồn rầu, tủi hổ, sượng sùng tái tê, ê chề đến mất hết cảm giác như cái bóng không hồn làm theo đạo diễn của mụ mối như một cái máy.
- Với sự thông minh nhạy cảm nàng chắc đã nhận ra phần nào, nghi ngờ phần nào sự giả dối của Mã Giám Sinh nhưng vì hoàn cảnh tình thế buộc nàng không còn cách giải quyết nào khác đành phải chấp nhận mà thôi.
--> Nguyễn Du cảm thấy thương xót sâu sắc trước thực trạng con người bị hạ thấp, bị chà đạp. Nhà thơ như hóa thân vào nhân vật để nói lên nỗi đau đớn, tủi hổ của Thúy Kiều--> nội dung nhân đạo của đoạn trích.
III. Tổng kết
1.Nghệ thuật:
- Nghệ thuật kể chuyện rất gọn, mạch lạc kết hợp miêu tả chân dung thể hiện tích cách nhân vật bằng những từ ngữ chọn lọc, đắt tóm trúng thần thái của Nguyễn Du.
2. Nội dung:
Đoạn trích là một bức tranh hiện thực về xã hội đồng thời thể hiện tấm lòng nhân đạo của Nguyên Du.
- Nguyễn Du vừa phê phán đồng tiền( đễ dàng tha hóa con người, lạnh lùng đẩy một cô gái khuê các xuống địa ngục trầm luân, biến một cô gái tài sắc vẹ toàn thành một món hàng giá chỉ vài trăm lạng, Mã Giám sinh vì tiền mà táng tận lương tâm....)
( Song đồng tiền cũng cứu nguy cho một gia đình thoát cơn bĩ cực, trong tay những người tốt như Thúc Sinh, Từ Hải nó lại có ý nghĩa cứu được Kiều ra khỏi lầu xanh).
3. Ghi Nhớ:
 ( SGK)
4.3. Kết quả của việc nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm
	Năm học 2010- 2011 tôi đã tiến hành khảo sát trên tổng số giờ 
Đọc – hiểu văn bản: 20 giờ.
	Kết quả cụ thể như sau:
 Tổng số giờ 
 khảo sát 
 Số giờ vận dụng 
dạy học nêu vấn đề
Số giờ không vận dụng 
 dạy học nêu vấn đề
Ghi chú
 Tổng số 
 giờ 
 %
 Tổng số 
 giờ 
 %
 20
 18
 90 
 01
 10 
 	Trong đó mức độ vận dụng dạy học nêu vấn đề là:
TS giờ KS
Số giờ vận dụng dạy học NVĐ
 Mức độ 1
Mức độ 2
 Mức độ 3
Mức độ 4
TS
 %
TS
 %
 TS
 %
 TS
 %
 TS
 %
 20
 18
 90
3
17
5
28
8
44
2
11
	Giáo viên đã có ý thức vận dụng dạy học nêu vấn đề trong dạy học ngữ văn , các mức độ dạy học nêu vấn đề đã được nâng lên.
	Kết quả điều tra trắc nghiệm tâm lý học sinh sau giờ học có vận dụng dạy học nêu vấn đề:
Tổng số học sinh được khảo sát
 Số học sinh có tâm lý thoải mái hứng thú khi giải quyết được vấn đề
Số học sinh còn băn khoăn khi chưa giải quyết được vấn đề
 Số học sinh không bày tỏ thái 
 độ 
 TS 
 %
 TS
 %
 TS
 %
 46
 33
 71,7
 11
 24
 2
 4,3
	 Vận dụng tốt phương pháp dạy học nêu vấn đề kích thích hứng thú học tập của học sinh, tích cực hóa hoạt động học tập giúp cải thiện được tình trạng chán học văn hiên nay của một bộ phận học sinh.
 Phần III. Kết luận và kiến nghị
Kết luận:
Dạy học nêu vấn đề là một kiểu dạy học tiên tiến phù hợp với nhà trường hiện nay, chủ trương tích cực hóa hoạt động của học sinh trong học tập làm cho các em quen với việc phát hiện, giải quyết vấn đề trong nhà trường và trong cuộc sống.
Trong quá trình triển khai vận dụng dạy học nêu vấn đề ở môn Ngữ văn THCS đặc biệt là ở các giờ học Đọc – hiểu văn bản, bản thân tôi đã áp dụng có hiệu quả kiểu dạy học này thu hút được sự chú ý, sự tham gia tích cực của học sinh vào việc giải quyết các vấn đề đặt ra. Thay vì việc ghi chép thụ động các em đã tích cực hoạt động, các em được suy nghĩ, được lựa chọn, được bày tỏ ý kiến cá nhân hoặc tham gia cùng nhóm của mình tiếp thu tri thức hoàn toàn chủ động. Dạy học nêu vấn đề vận dụng vào bộ môn Ngữ văn có hiệu quả rõ rệt song để vận dụng tốt người giáo viên đứng lớp cần phải đạt được các yêu cầu sau:
1.1.Phát hiện vấn đề:
Đây là khâu đầu tiên cần làm khi muốn vận dụng thành công kiểu dạy học này.
Trước hết người giáo viên phải nắm vững kiến thức( mục tiêu cần đạt của giờ học theo chuẩn kiến thức kỹ năng), sau đó mới nghĩ tới các phương pháp tạo ra kiến thức đó ở người học. Xác định được vấn đề hay là tổ chức kiến thức dưới dạng vấn đề là khâu bắt buộc khi chuẩn bị bài giảng lên lớp.
 1.2. Xây dựng tình huống có vấn đề:
Đây là bước quan trọng trong khâu chuẩn bị của giáo viên vấn đề làm tiềm ẩn, có sẵn trong các tác phẩm văn học khi nó được phát hiện thì đã có sự lao động của người giáo viên. Tuy nhiên phát hiện vấn đề có đưa thành tình huống có vấn đề hay chỉ “ thông báo” vấn đề theo kiểu dạy truyền thống đó là hoạt động phụ thuộc vào năng lực của giáo viên, giáo viên cần phải đặt ra được vấn đề cho học sinh, làm cho các em có ham muốn tìm hiểu và giải quyết và chắc chắn giải quyết được. Vấn đề quan trọng là tìm ra vấn đề lý thú làm sao để khi học sinh giải quyết được vấn đề sẽ thỏa mãn, vui sướng vì hiểu được tri thức mới, hiểu được cách chiếm lĩnh khám phá.
 1.3. Hướng dẫn giải quyết vấn đề trên lớp:
Đây là một nghệ thuật sư phạm tổng hợp đòi hỏi người giáo viên phải biết triển khai tình huống ( đã thiết kế trong giáo án) trong giờ học. Trước hết giáo viên cần tạo được cho học sinh tâm thế thoải mái, hứng thú và sẵn sàng hợp tác để đi vào tìm hiểu tác phẩm. Học sinh được đưa dần vào tình huống có vấn đề. Trong quá trình hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề có thể đưa thêm câu hỏi phụ, khơi gợi học sinh duy trì hứng thú tìm tòi.
1.4. Chú ý tính chất hệ thống và chặt chẽ giữa các vấn đề với nhau và các yếu tố khác trong quá trình phân tích tác phẩm.
1.5. Cần biết vận dụng tốt các phương pháp dạy học văn với dạy học nêu vấn đề chẳng hạn như phương pháp đọc sáng tạo với dạy học nêu vấn đề, phương pháp tái tạo với dạy học nêu vấn đề, phương pháp gợi mở và dạy 
học nêu vấn đề, phương pháp nghiên cứu và dạy học nêu vấn đề....
	Khi vận dụng dạy học nêu vấn đề không tuyệt đối hóa hay cô lập hóa nó khỏi phương pháp truyền thống mà người giáo viên cần phải biết vận dụng và phối hợp nhịp nhàng khéo léo phương pháp dạy học nêu vấn đề với các phương pháp dạy học khác.
Kiến nghị:
Để thực hiện sáng kiến này có hiệu quả:
- Nhà trường cần chú trọng quan tâm đến công tác tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của mỗi giáo viên để các đồng chí tích cực tự giác đầu tư, nâng cao tay nghề và đổi mới phương pháp dạy học.
- Nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn cần phong phú, sáng tạo tránh hình thức qua loa. Tổ chức theo định kỳ hội thi GVG cấp trường, các giờ thao giảng, hội giảng để đồng nghiệp học hỏi , trao đổi phương pháp dạy học và tích lũy kinh nghiệm quý báu lẫn nhau.
- Bản thân mỗi giáo viên đứng lớp phải luôn tâm huyết, có trách nhiệm, tận tậm tận lực trước mỗi bài giảng nhằm đem lại những giờ học bổ ích cho các em học sinh.
 Trên đây là những kinh nghiệm của cá nhân tôi tích lũy từ nhiều năm trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THCS( mà cụ thể là hai năm nghiên cứu 2009-> 2011). Đây là bài học được rút ra từ thực tế giảng dạy của cá nhân cũng như các giờ dự của đồng nghiệp. Với khả năng còn hạn chế, tôi rất mong nhận được sự góp ý quý báu của đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi vận dụng đạt hiệu quả cao hơn.
 Tôi xin chân thành cảm ơn!
 Thanh Hà, ngày 20 tháng 4 năm 2011
 Người viết
 Trương Thị Thu Dung
 Tài liệu tham khảo
1.Đường Văn, Hoàng Dân, Đọc- Hiểu văn bản tác phẩm văn chương THCS – Quyển 1,2, NXB Đại học sư phạm, năm 2006.
2.Hoàng Kim Bảo, Nguyễn Hải Châu, Vũ Nho, Nguyễn Quang Ninh, 
 Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo dục THCS chu kỳ III( 2004-2007)- Quyển 2, NXB Giáo dục, năm 2007.
3. Nguyễn Hải Châu, Nguyễn Trọng Hoàn, Vũ Nho, Những vấn đề chung về Đổi mới giáo dục THCS môn Ngữ văn, NXB Giáo dục, năm 2007.
4. Nguyễn Thúy Hồng, Nguyễn Quang Ninh, Một số vấn đề Đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn THCS, NXB Giáo dục, năm 2008.
5. Vũ Nho, Nguyễn Trọng Hoàn, Nguyễn Thúy Hồng, Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngọc, Một số vấn đề về Đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS môn Ngữ văn, Bộ GD&ĐT, năm 2002.
6. Vũ Dương Quỹ, Bình giảng văn 6,7,8,9,NXB Giáo dục, năm 2008
Mục lục
 Tên mục
 Trang
Danh mục chữ cái viết tắt.
Phần I: Đặt vấn đề
Phần II: Giải quyết vấn đề
Cơ sở lý luận
Thực trạng của vấn đề
 3.Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề
4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Phần III: Kết luận và kiến nghị
 Tài liệu tham khảo
 Mục lục
Đánh giá nghiệm thu sáng kiến kinh nghiệm

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN day hoc neu van de.doc