Chân dung và tiểu sử các nhà văn THCS

Chân dung và tiểu sử các nhà văn THCS

1. Chính Hữu (1926 - 2007)

 Tấm áo hào hoa bạc gió mưa

 Anh thành đồng chí tự bao giờ

 Trăng còn một mảnh treo đầu súng

 Cái ghế quan trường giết chết thơ.

 (Xuân Sách)

 * Tiểu sử.

+ Tên thật: Trần Đình Đắc, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1926, đồng hương Can Lộc, Hà Tĩnh với Xuân Diệu.

Chính Hữu đi học ở Hà Nội và tham gia kháng chiến chống Pháp từ Hà Nội. Ông viết ít mà chắc khỏe, tiết kiệm ngôn từ. Thơ ông được chú ý vì tiết tấu, nhịp điệu linh hoạt.

Nguồn cảm hứng lớn trong thơ Chính Hữu là cuộc đời người chiến sĩ, là Tổ quốc VN gian lao mà anh dũng trong các cuộc chiến tranh giải phóng.

Tác phẩm tiêu biểu: Đồng chí, Sáng hôm nay, Đường ra mặt trận, Ngọn đèn đứng gác, Thư nhà,.

Ông mất ngày 27/11/2007 tại Bệnh viện Hữu Nghị - Hà Nội, hưởng thọ 82 tuổi.

 

doc 62 trang Người đăng haiha30 Lượt xem 804Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chân dung và tiểu sử các nhà văn THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chân dung và tiểu sử các nhà văn THCS
1. Chính Hữu (1926 - 2007)
 Tấm áo hào hoa bạc gió mưa
 Anh thành đồng chí tự bao giờ
 Trăng còn một mảnh treo đầu súng
 Cái ghế quan trường giết chết thơ.
 	 (Xuân Sách) 
 * Tiểu sử.
+ Tên thật: Trần Đình Đắc, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1926, đồng hương Can Lộc, Hà Tĩnh với Xuân Diệu.
Chính Hữu đi học ở Hà Nội và tham gia kháng chiến chống Pháp từ Hà Nội. Ông viết ít mà chắc khỏe, tiết kiệm ngôn từ. Thơ ông được chú ý vì tiết tấu, nhịp điệu linh hoạt.
Nguồn cảm hứng lớn trong thơ Chính Hữu là cuộc đời người chiến sĩ, là Tổ quốc VN gian lao mà anh dũng trong các cuộc chiến tranh giải phóng.
Tác phẩm tiêu biểu: Đồng chí, Sáng hôm nay, Đường ra mặt trận, Ngọn đèn đứng gác, Thư nhà,..
Ông mất ngày 27/11/2007 tại Bệnh viện Hữu Nghị - Hà Nội, hưởng thọ 82 tuổi.
* Ngoài lề.
+ Nhà thơ tâm sự: “Tôi không phải là nông dân và quê hương tôi cũng không phải trong cảnh nước mặn đồng chua hoặc cằn cỗi sỏi đá. Cái tôi trong bài thơ có những chi tiết không phải là của tôi mà là của bạn, nhưng về cơ bản là của tôi. Tất cả những hình ảnh gian khổ của đời lính thiếu ăn, thiếu mặc, sốt rét, bệnh tật  bạn và tôi đều cùng trải qua Viết về bộ đội nhưng thơ tôi thiên về khai thác đời sống nội tâm, tình cảm, ít có những chuyện đùng đoàng chiến đấu. Tôi làm bài “Đồng chí” là tình cảm chân tình tự nhiên không có sự gò ép, gắng gượng nào.Tôi thấy có bạn phân tích hình ảnh đầu súng trăng treo là tượng trưng cho người chiến sĩ đang bảo vệ quê hương và vầng trăng tượng trưng cho quê hương thanh bình. Tôi không nghĩ thế khi viếtVấn đề đối với tôi đơn giản hơn những đêm phục kích chờ giặc vầng trăng đối với chúng tôi như một người bạn.” (Nguyên An)
+ Thơ ông không nhiều nhưng lại có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Ông đã sáng tác bài thơ "Đồng chí" mà sau này đã được phổ nhạc cho bài hát "Tình đồng chí". Bài hát đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ Bài thơ đầu tiên được in báo của ông chính là bài Đồng chí tức Đầu súng trăng treo  đăng tải trên báo Sự thật
+ Ngoài bài thơ Đồng chí được nhạc sỹ Minh Quốc phổ nhạc, một số bài thơ khác của ông cũng là nguồn cảm hứng cho các nhạc sỹ khác sáng tác các bài hát nổi tiếng như bài "Ngọn đèn đứng gác" (nhạc sỹ Hoàng Hiệp), "Bắc cầu" (nhạc sỹ Quốc Anh), "Có những ngày vui sao" (nhạc sỹ Huy Du) 
2. Phạm Tiến Duật (1941 - 2007)
 	Trường sơn đông em đi hái măng
 	Trường sơn tây anh làm thơ cho lính
 	Đời có lúc bay lên vầng trăng
	Lại rơi xuống chiếc xe không kính
 	Thế đấy! giữa chiến trường
 	Nghe tiếng bom cũng mạnh! (Xuân Sách)
* Tiểu sử.
Phạm Tiến Duật sinh ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Cha ông là nhà giáo, dạy chữ Hán và tiếng Pháp, còn mẹ làm ruộng, không biết chữ. Ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, nhưng sau đó không tiếp tục với nghề giáo mà quyết định lên đường nhập ngũ. Trong thời gian này, ông sống và chiến đấu chủ yếu trên tuyến đường Trường Sơn. Đây cũng là thời gian ông sáng tác rất nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng. Năm 1970, sau khi đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ, Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Chiến tranh kết thúc, ông về làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt nam. Ông sống ở Hà Nội, là Phó trưởng Ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam. Ông cũng là người dẫn chương trình của một chương trình dành cho người cao tuổi (“Vui, khoẻ và có ích”) của kênh VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam.
Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.
Ngày 19 tháng 11 năm 2007, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã ký lệnh tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhì cho nhà thơ Phạm Tiến Duật.
Ngày 4 tháng 12 năm 2007, vào khoảng 8:50, ông mất tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 vì căn bệnh ung thư phổi, hưởng thọ 66 tuổi.
* Bình luận, ngoài lề.
+ Ông đóng góp chủ yếu là tác phẩm thơ, phần lớn thơ được sáng tác trong thời kỳ ông tham gia quân ngũ. Thơ của ông được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng như: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung và có cái "tinh nghịch" nhưng cũng rất sâu sắc. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát trong đó tiêu biểu nhất là "Trường Sơn đông, Trường Sơn tây".
+ Ông được ca tụng là "con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại", "cây săng lẻ của rừng già”, "nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ”. Thơ ông thời chống Mỹ từng được đánh giá là "có sức mạnh của một sư đoàn".
+ Là một nhà thơ có nhiều bài thơ hay thời chống Mĩ, PTD đã góp phần đáng kể vào việc làm trẻ hóa thơ VN hồi đó. Thơ ông có nhiều chi tiết từ cuộc sống kham khổ mà đầy lạc quan của người lính, nhịp điệu nhanh hoạt như phảng phất tiếng cười nói vui nhộn tếu tao của người lính mà vẫn nghiêm trang, có chất suy tưởng. 
 (Nguyên An)
+ Thơ ông hồn nhiên, hóm hỉnh, giàu tính lạc quan với những phát hiện thú vị, đầy chất lính.
+ Chỉ còn một năm nữa là đến kỷ niệm 50 năm ra đời của Đoàn 559 (tức đơn vị đã khai sinh ra đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại vượt Trường Sơn – tuyến vận tải huyết mạch cung cấp sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc cho chiến trường miền Nam). Chúng tôi vẫn nói với nhau: Nếu chọn một nhà thơ đại diện cho văn nghệ sĩ nước nhà đi dự lễ kỷ niệm này, thì không ai xứng đáng hơn Phạm Tiến Duật.
 	(Đặng Vương Hưng - Báo Lao Động số 175 Ngày 31/07/2007 )
3. Huy Cận (1919 - 2005)
 Các vị La hán chùa Tây phương
 Các vị gày quá tôi thì béo
 Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
 Bây giờ tôi hát đất nở hoa
 Tôi hát chiến tranh như trẩy hội
 Không nên xấu hổ khi nói dối
 Việc gì mặt ủ với mày chau
 Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu!
 (Xuân Sách)
* Tiểu sử.
Ông sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919, trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân dưới chân núi Mồng Gà, Hương Sơn (nay là huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận lúc nhỏ học ở quê, sau vào Huế học trung học, rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Trong thời gian học Cao đẳng, ông ở phố Hàng Than cùng với Xuân Diệu. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh, Huy Cận đã tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào (tháng 8 năm 1945) và được bầu vào Ủy ban giải phóng (tức Chính phủ Cách mạng lâm thời sau đó). Huy Cận cũng từng cộng tác với nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Tháng 8 năm 1945, Cù Huy Cận là một trong ba thành viên của phái đoàn Chính phủ Lâm thời (gồm Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận) đi vào Huế để tiếp nhận lễ thoái vị của Vua Bảo Đại.
Ông làm Bộ trưởng Bộ Canh nông khi mới 26 tuổi.Sau này thứ trưởng Bộ Văn hóa, rồi Bộ trưởng đặc trách Văn hóa Thông tin. Tháng 6 năm 2001, Huy Cận được bầu là viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới.
Làm thơ từ 1934, đăng thơ từ năm 1936. Là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ Mới, thơ ông có một bản sắc và giọng điệu riêng, có chiều sâu xã hội cũng như triết lý. Thơ Huy Cận mang một nỗi buồn sâu lắng, miên man, ảo não và thảm đạm; nỗi buồn của "đêm mưa", của "người lữ thứ", nỗi buồn của "quán chật đèo cao", của "trời rộng sông dài".
* Giải thưởng: Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I - năm 1996).
Huy Cận mất ngày 19 tháng 2 năm 2005 tại Hà Nội. Ngày 23 tháng 2 năm 2005, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng.
Một số Thành phố đã có đường phố mang tên nhà thơ Huy Cận.
* Ngoài lề.
+ Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới , Huy Cận sớm nổi tiếng từ lúc là học sinh ở Huế. Hầu hết thơ Huy Cận trước 1945 thuộc trường phái lãng mạn - điển hình là tập thơ “Lửa thiêng” (1940), tập thơ đầu tay khi ông ở tuổi 20.
Sau năm 1945, Huy Cận theo kháng chiến và ở lại miền Bắc. Những tác phẩm sau 1954 được biết đến gồm có: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1964), Những năm 60 (1964). Những tập thơ sau này nghiêng hẳn về xã hộị.
Trong nền thơ ca hiện đại VN, Huy Cận có một vị trí vững vàng. Đó là vị trí của một nhà thơ có sức sáng tạo dồi dào, có chất thơ giàu suy tưởng và đằm thắm một tình yêu con người với quê hương, Tổ quốc VN. 
(Nguyên An)
4. Bằng Việt  (1941 - ?)
 Nhen lên một bếp lửa
 Mong soi gương mặt người
 Bỗng cơn giông nổi đến
 Mây che một khung trời
 Đất sau mưa sụt lở
 Mầu mỡ trôi đi đâu
 Còn trơ chiếc guốc vàng
 Trăng mài mòn canh thâu. 
 (Xuân Sách)
* Tiểu sử.
Bằng Việt tên thật: Nguyễn Việt Bằng, quê ở Thạch Thất, Hà Tây (nay là Hà Nội), sinh ngày 15 tháng 6 năm 1941.
Ông là một nhà thơ Việt Nam, từng là Tổng thư kí Hội Văn nghệ Hà Nội. Chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam và đang là Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội.
Bằng Việt làm thơ từ năm 13 tuổi, đã từng theo học Đại học Luật ở Liên Xô (cũ). Bài thơ đầu tiên được công bố là bài Qua Trường Sa viết năm 1961. Ông bắt đầu được biết đến từ cuối những năm 1960. Bằng Việt gắn bó với việc sáng tác, ngoài ra còn dịch thơ, truyện của các tác giả lớn, viết tiểu sử danh nhân, biên tập báo, biên soạn một số từ điển văn học.
Giải thưởng
Giải nhất về thơ của Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (1968) 
Giải thưởng dịch thuật văn học quốc tế và giao lưu văn hóa quốc tế do Quỹ Hòa bình Liên Xô trao tặng năm 1982 
Giải thưởng Nhà nước về văn học (do Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trao tặng, 2001) 
Giải thưởng thơ của Hội nhà văn Việt Nam (2002) 
Giải thưởng văn học ASEAN 2003 cho tập thơ "Ném câu thơ vào gió" 
"Giải thành tựu trọn đời" của Hội Nhà văn Hà Nội (2005) cho Thơ trữ tình thế giới thế kỷ XX, với nhận xét: "Nhiều bài đã trở nên quen thuộc với các thế hệ người yêu thơ trong bốn thập kỷ qua, mang dấu ấn tâm hồn và nét sang trọng, tinh tế của người chuyển ngữ. Giải trao cho nhà thơ Bằng Việt để ghi nhận thành tựu trọn đời của một dịch giả tài hoa có nhiều đóng góp trong hoạt động giới thiệu văn chương nước ngoài". 
* Bình luận.
+ Thiết tha và đầy thương mến, hay suy ngẫm và có khả năng khái quát - đó là bản sắc của Bằng Việt. (Nguyên An)
5. Nguyễn Khoa Điềm (1943 - )
 Một mặt đường khát vọng
 Cuộc chiến tranh đi qua
 Rồi trở lại ngôi nhà
 Cất lên ngọn lửa ấm
 Ngủ ngon a Kai ơi
 Ngủ ngon a Kai à... 
 (Xuân Sách)
* Tiểu sử.
Nguyễn Khoa Điềm sinh ngày 15 tháng 4 năm 1943, tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hoà, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế, con của nhà cách mạng Hải Triều Nguyễn Khoa Văn (Nguyễn Khoa Hải Triều), dòng dõi quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng, gốc An Dương (Hải Dương cũ)
Đã là Tổng thư kí Hội Nhà văn VN, Thứ trưởng Bộ văn hóa - Thông tin.
Tác phấm chính: Đất ngoại ô (1971), Đất và khát vọng (tuyển, 1984), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm
Ông đã được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tập thơ Ngôi nhà có ngọn lửa ấm.
* Bình luận.
+ Ngay từ đầu, thơ NKĐ đã có sự kết hợp hài hòa giữa cái trầm lắng thiết tha với âm hưởng hào hùng sôi nổi. Tiếng thơ ấy giành những dòng trang trọng, thành kín ... hông bênh vực thơ mới, không bút chiến, không diễn thuyết, Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm nhiên bước những bước vững vàng, mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ".
Riêng các truyện mà ông sáng tác, Lê Đình Kỵ cũng đã khẳng định tên tuổi Thế Lữ: “cho đến nay, trong lịch sử văn học Việt Nam, không có một tên tuổi nào đáng được xếp bên cạnh Thế Lữ trong thể loại sáng tác độc đáo này”. 
Ngoài lề
- Cha ông là sếp ga xe lửa trên tuyến đường sắt Lạng Sơn - Thanh Hóa. Mẹ ông sinh ra trong gia đình Công giáo, kết hôn với cha ông trước, nhưng lại không được gia đình bên nội thừa nhận. Khi mới vài tháng tuổi, Thế Lữ bị đưa rời khỏi mẹ, đem lên Lạng Sơn sống cùng bà nội, cha và u (vợ chính thức của cha). Xa mẹ từ nhỏ, mỗi năm có được gặp một đôi lần, nên theo như Thế Lữ nhớ lại, chủ đề chính từ khi ông còn bé cho đến năm 10 tuổi đó là xa cách, nhớ thương người mẹ đẻ của mình Sống ở xứ Lạng Sơn, núi rừng thiên nhiên nơi đây với những câu chuyện kinh dị ma quái mà ông được nghe từ nhỏ đã trở thành nguồn tư liệu, tạo cảm hứng cho các tác phẩm văn xuôi của ông sau này.
- Ông thường say mê cái đẹp của tưởng tượng, của nghệ thuật, viết về những chuyện nửa thực nửa hư, vừa thơ mộng vừahùng vĩ, lại có gì bí ẩn trong bức tranh thiên nhiên.
- Thế Lữ được xem là người có đóng góp đáng kể vào việc hiện đại hóa thơ Việt Nam. Tuy chưa thoát hẳn khỏi phong cách diễn đạt ước lệ của thơ cũ, thơ ông đã có những cách tân táo bạo về hình thức nghệ thuật.(...)
- Ông đã được dựng tượng đặt ở chính giữa Nhà truyền thống của Nhà hát Kịch Việt Nam, có tiền thân là Đoàn Kịch nói Trung ương do ông sáng lập. Năm 2001, Thế Lữ được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật trong lĩnh vực sân khấu cho hai tác phẩm Cụ đạo, sự ông
- Thế Lữ đã được đặt tên cho một số đường phố ở Đà Nẵng, Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh
10. Vũ Đình Liên (1913 - 1996)
 Vũ Đình Liên (sinh ngày 12 tháng 11 năm 1913 - mất ngày 18 tháng 1 năm 1996) là một nhà thơ, nhà giáo nhân dân Việt nam
Tiểu sử
Nhà thơ, NGND Vũ Đình Liên sinh ngày 12.11.1913 (tức ngày 15.10 năm Quý Sửu) tại Hà Nội, quê gốc ở thôn Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
Dòng họ Vũ là dòng họ giàu truyền thống văn hiến. Thuở ấu thơ, thầy là một học trò giỏi có tiếng ở đất Hà thành. Đỗ tú tài trường Bưởi năm 1932, ông từng dạy học ở các trường tư thục Thăng Long, Gia Long, Trường nữ sinh Hoài Đức để kiếm sống, ông học thêm trường Luật. Năm 1936 ông được biết đến với bài thơ "Ông đồ" đăng trên báo Tinh Hoa. Ông tham gia giảng dạy nhiều năm và từng là chủ nhiệm khoa tiếng Pháp trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài thơ ông còn hoạt động trong lĩnh vực lý luận, phê bình văn học và dịch thuật. Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt nam.
Ngày 18.1.1996, giữa lúc đất nước và lòng người đang chờ đón Tết Bính Tý thì GS.NGND Vũ Đình Liên đã đi vào cõi vĩnh hằng. Tập thơ "Les fleurs du Mal" (Những bông hoa ác) của Baudelaire, một công trình nghiên cứu và dịch sau gần 40 năm của thầy được xuất bản năm 1995, đã được tặng giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1996, nhưng thầy đã đi vào cõi hư vô không kịp nhận thưởng...
* Bình luận:
+ Là nhà thơ (nhà giáo) góp phần làm nên cuộc cách mạng thơ ca ở VN (Thơ mới). Ông viết không nhiều, thường hướng về vẻ đẹp của muôn năm cũ, quay về với những vang bóng một thời: ông đồ. Với nhà thơ, viết về ông đồ già là viết về một hạng người có cốt cách tài hoa, cương nghị, hạng người đang bảo tồn một phần quốc túy quốc hồn Việt Nam. (NA)
+ “Ông chính là cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” (Lời VĐL trong thư gửi cho Hoài Thanh 9/1/1941 – NA)
* Ngoài lề:
+ Cuộc sống của nhà giáo, nhà thơ Vũ Đình Liên thật giản dị, khiêm nhường, lạc quan, ưu ái với mọi người, gần gũi yêu thương học trò... Mười triệu đồng tiền thưởng kèm theo thì thầy tặng lại cho quỹ giúp đỡ học trò nghèo. Mặc dầu gia tài của thầy những năm tháng cuối đời có lẽ không hơn gì ông đồ xưa, cần giữ lại phần thưởng trọn đời làm thầy giáo đó để tĩnh dưỡng tuổi già sức yếu? 	 (Nguyễn Như An) 
+ Bài thơ "Ông đồ" và tác giả đã được các báo chí nước ngoài giới thiệu qua gần 10 thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Trung, Đức, Thụy Điển, Đan Mạch, Bồ Đào Nha, Ả Rập... Thật là một bài thơ bất hủ của nhà thơ, nhà giáo Vũ Đình Liên.
+ Thầy thổ lộ: "Hạnh phúc lớn nhất cuộc đời nhà thơ, nhà giáo của tôi là được chia sẻ niềm vui và nỗi buồn với tất cả mọi người".
+ Hai người con trai của thầy đã nối nghiệp người cha kính yêu. Anh Vũ Đình Quỳ là giảng viên Trường Đại học Xây dựng Hà Nội, anh Vũ Đình Dương là giảng viên Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc. Năm cháu nội của thầy đã theo gương ông mà học tập thành đạt trở thành cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ, trong đó có cháu Vũ Thị Hiền là giảng viên Ngôn ngữ ở một trường đại học ở Tiệp Khắc, cháu Vũ Hương Giang tốt nghiệp thạc sĩ ở Australia, cháu Vũ Thị Hằng, tiến sĩ khoa học, giảng viên Đại học Quốc gia Australia.
11. Tế Hanh (1921 - 2009)
 	Quá tuổi hoa niên đã bạc đầu
 	Tình còn dang dở tận Hàng Châu
 	Khúc ca mới hát sao buồn thế
 	Hai nửa yêu thương một nửa sầu.	(Xuân Sách)
* Tiểu sử. 
Tên khai sinh: Trần Tế Hanh. Sinh ngày 20/6/1921 tại thôn Đông Yên, xã Bình Dương, Bình Sơn, Quảng Ngãi trong một gia đình nhà nho. 
Tế Hanh say mê đọc và sáng tác từ rất sớm. Tập thơ đầu “Nghẹn ngào” được xuất bản khi ông đang học trung học. Với tập Nghẹn ngào, ông giành giải khuyến khích của Tự lực văn đoàn và đã đứng trong phong trào Thơ mới. Tham gia Việt Minh từ tháng 8 năm 1945, Tế Hanh đã trải qua các công tác văn hoá, giáo dục ở Huế, Đà nẵng, là Ủy viên giáo dục trong Uỷ ban lâm thời thành phố Đà nẵng sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Năm 1947, ông làm việc trong Ban phụ trách Trường trung học bình dân Trung bộ, năm 1948, ông ở trong Ban phụ trách liên đoàn văn hoá kháng chiến Nam Trung bộ ủy viên thường vụ chi hội Văn nghệ Liên khu V. Năm 1957 khi thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, ông là Ủy viên thường vụ Hội khoá I, II, ủy viên thường vụ Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam (1963), tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam nhiều khóa, giữ các chức vụ: Trưởng ban đối ngoại (1968), Chủ tịch Hội đồng dịch thuật (1983), Chủ tịch Hội đồng thơ (1986).
Ngoài thơ, Tế Hanh còn dịch nhiều tác phẩm của các nhà thơ lớn trên thế giới, viết tiểu luận phê bình văn học, thơ thiếu nhi.
Mất lúc 12 giờ ngày 16/7/2009 tại Hà Nội sau nhiều năm chống chọi với căn bệnh xuất huyết não. Có thể nói, đây là sự ra đi của nhà thơ cuối cùng trong phong trào thơ mới.
* Giải thưởng văn học: Giải Tự lực văn đoàn (1939); Giải thưởng Phạm Văn Đồng do Hội Văn nghệ Liên khu 5 tặng; Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - Nghệ thuật (đợt 1/1996)
* Tác phẩm: Hoa niên (1945); Hoa mùa thi (1948); Nhân dân một lòng (1960); Bài thơ tháng bảy (1961); Hai nửa yêu thương (1963); Khúc ca mới (1966); Đi suốt bài ca (1970); Câu chuyện quê hương (1973); Theo những tháng ngày (1974) Ngoài ra ông còn xuất bản các tập tiểu luận và nhiều tập thơ viết cho thiếu nhi. Ông cũng đã xuất bản nhiều tập thơ dịch của các nhà thơ lớn trên thế giới. 
* Thành tựu nghệ thuật
Được biết đến với bài thơ đầu tiên Những ngày nghỉ học từ năm 17 tuổi (1938). Giới phê bình và bạn đọc đều cho rằng Tế Hanh thành công trong cả phong trào Thơ mới và sau cách mạng tháng Tám. "Mảnh hồn làng" của ông đã ghi dấu ấn rất riêng trong phong trào Thơ mới và sau đó những bài thơ của ông đã đóng góp đáng kể cho thơ ca hiện đại Việt nam. Cho dù sau cách mạng tháng Tám, bút pháp của ông thay đổi hẳn nhưng cái tinh tế, tình yêu của ông dành cho đất nước, quê hương và tất nhiên cho người phụ nữ trong thơ Tế Hanh thì vẫn đâm chồi nảy lộc. Sau Cách mạng tháng Tám, Tế Hanh có nhiều bài thơ hay về quê hương, đất nước, về cuộc chiến tranh chống Mỹ (Nhớ con sông quê hương, Đi suốt bài ca...) nhưng những sáng tác của ông dành nhiều cho thơ tình, theo nhà thơ Ngô Văn Phú thì "có thể nói sau Xuân Diệu, anh là người làm thơ tình nhiều nhất". Thơ tình của Tế Hanh không lãng mạn bay bổng cũng không dằn vặt khổ đau mà rất tự nhiên, gắn với hoàn cảnh, cuộc sống cụ thể, thế nhưng chính những điều tưởng như bình thường ấy lại biểu hiện được tình yêu, một trong những nhiệm vụ luôn luôn khó khăn đối với người cầm bút. Chính vì thế nhiều bài thơ tình của ông như: Vườn xưa, Anh đến với em là lẽ tất nhiên... được yêu thích. 	(Theo Wikipedia)
* Bình luận: 
+ Thơ Tế Hanh trước cách mạng buồn mà không cô đơn bế tắc. Đó là tiếng thơ dịu dàng, trầm lắng của một tâm hồn luôn tha thiết với quê hương: từ một cánh buồm no gió đến một lượn sóng nhỏ trên sông, từ một hàng tre ríu rít tiếng chim kêu đến những con người “Cả thân mình nồng thở vị xa xăm” Thơ Tế Hanh sau cách mạng là tiếng ca vui về cuộc sống mới trên miền Bắc đang đổi thịt thay da, là Lòng miền Nam kiên trung Gửi miền Bắc thương yêu, là Tiếng sóng trong lòng ông, trong lòng những người Việt yêu nước thương nhà gửi đến Hai nửa yêu thương là hai miền Tổ quốc đang vừu lao động và chiến đấu cho độc lập tự do, cơm no áo ấm đến muôn nhà.
Chân thành và sáng trong, thiết tha và sôi nổi trong một âm điệu dịu dàng, như thế, suốt hơn nửa thế kỉ qua, thơ Tế Hanh đã đi cùng dân tộc. Bạn đọc thích ông và cũng quý trong cả con người cùng những đóng góp của ông.	(Nguyên An)
+ Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân đã ca ngợi ông: "Tế Hanh là một người tinh lắm, Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy được cả những điều không hình sắc, không thanh âm như mảnh hồn làng, trên cánh buồm giương, như tiếng hát của hương đồng quyến rũ, con đường quê nho nhỏ. Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi..." 
+ Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn đã từng giành nhiều tình cảm khi viết về ông như: "Trong thơ Việt Nam tiền chiến, ông chưa bao giờ tạo được một sự hấp dẫn lạ lùng như Hàn Mặc Tử hoặc Nguyễn Bính, cũng không có lúc nào làm chủ thi đàn như Thế Lữ hoặc Xuân Diệu. Nhưng ông vẫn có chỗ của mình. Tập Nghẹn ngào từng được giải thưởng Tự Lực văn đoàn. Từ sau 1945,ông vẫn làm thơ đều đều, những tập thơ mỏng manh, giọng thơ không có gì bốc lên nồng nhiệt, nhưng được cái tình cảm hồn nhiên, và tập nào cũng có một ít bài đáng nhớ, khiến cho ngay sau Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu người ta nghĩ đến Tế Hanh”. 	 	 (Vương Trí Nhàn – Cây bút đời người)
+ Nhà thơ Thanh Thảo: “Hiếm có nhà thơ Việt nào lại có những bài thơ hay, đi vào lòng bạn đọc bất kể họ là người có học hay không có học, người trí thức hay người dân quê như thơ Tế Hanh. Có thể kể Nguyễn Bính, nhưng thơ Tế Hanh lại là một dòng "thơ đồng quê" khác với thơ Nguyễn Bính, nó không trau chuốt như thơ Nguyễn Bính nhưng lại đằm thắm và bất chợt hơn thơ Nguyễn Bính, như cách mà dòng sông chảy qua nhiều vùng đất nhiều thung thổ khác nhau”. 

Tài liệu đính kèm:

  • docchan dung cac.doc