phần thứ nhất: đặt vấn đề
I/ Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đều biết: Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong việc tạo lập văn bản. Từ đó, giúp học sinh hình thành ý thức và nhân cách cũng như trình độ học vấn cho các em ngay khi đang học bậc học THCS và trưởng thành sau này. Qua việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn, ta rèn cho học sinh ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương, quí trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác và cũng từ đó rèn cho các em tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật. Trước hết là trong văn học có năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp.
Để rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn, giáo viên phải hướng dẫn cho các em cách thức viết đoạn văn, cách sử dụng vốn từ ngữ, diễn đạt câu trong đoạn văn, bố cục đoạn văn trong một văn bản, cách sử dụng các phương tiện liên kết trong đoạn văn. Tuỳ theo từng phương thức diễn đạt khác nhau mà viết theo lối qui nạp, diễn dịch, song hành hay móc xích.
Để viết được đoạn văn phải có nhiều câu kết hợp tạo thành, cũng như vậy để tạo thành văn bản yêu cầu phải có các đoạn văn liên kết với nhau mà thành (khi đã dùng các phương tiện liên kết trong văn bản).
phần thứ nhất: đặt vấn đề I/ Lý do chọn đề tài Như chúng ta đều biết: Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong việc tạo lập văn bản. Từ đó, giúp học sinh hình thành ý thức và nhân cách cũng như trình độ học vấn cho các em ngay khi đang học bậc học THCS và trưởng thành sau này. Qua việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn, ta rèn cho học sinh ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương, quí trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác và cũng từ đó rèn cho các em tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật. Trước hết là trong văn học có năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp. Để rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn, giáo viên phải hướng dẫn cho các em cách thức viết đoạn văn, cách sử dụng vốn từ ngữ, diễn đạt câu trong đoạn văn, bố cục đoạn văn trong một văn bản, cách sử dụng các phương tiện liên kết trong đoạn văn. Tuỳ theo từng phương thức diễn đạt khác nhau mà viết theo lối qui nạp, diễn dịch, song hành hay móc xích. Để viết được đoạn văn phải có nhiều câu kết hợp tạo thành, cũng như vậy để tạo thành văn bản yêu cầu phải có các đoạn văn liên kết với nhau mà thành (khi đã dùng các phương tiện liên kết trong văn bản). Tuy vậy, trong giai đoạn hiện nay, có rất nhiều những phương tiện hiện đại, thông tin đại chúng cập nhật liên tục khiến cho học sinh lao vào con đường say mê “nghiện” sách vở bị lãng quên, ham bạo lực điện tử, sách kiếm hiệp. Vì vậy, các em không còn ham đọc sách, ham nghiên cứu. Cho nên, việc viết một đoạn văn lại càng là vấn đề đáng quan tâm khi chúng ta rèn luyện cho các em. Hơn thế nữa, tập làm văn là môn học thực hành tổng hợp ở trình độ cao của môn Văn – Tiếng Việt, môn Tập làm văn được xem như vị trí cốt lõi trong mối tương quan chặt chẽ với Văn và Tiếng Việt. Như vậy, chúng ta dạy Tập làm văn cho học sinh là dạy cho các em nắm vững văn bản, biết xây dựng các đoạn văn thông thường. Rèn luyện cho học sinh là rèn luyện cho các em các thao tác, những cách thức, những bước đi trong quá trình tạo lập văn bản. Vì thế, cách xây dựng đoạn văn trong phân môn tập làm văn được coi như vị trí hàng đầu. Việc rèn cách viết đoạn văn cho học sinh THCS theo trục tăng dần qua các thể loại văn học: tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận thuyết minh, điều hành ( hành chính công vụ). Từ đó giúp các em biết vận dụng các thể loại văn bản để phục vụ cho học tập và trong đời sống. Qua việc tiếp thu những kiến thức của môn Văn – Tiếng Việt, học sinh vận dụng sáng tạo, tổng hợp để có thể nói hoặc viết theo những yêu cầu, những đề tài khác nhau, những kiểu văn bản khác nhau mà cuộc sống đặt ra cho các em. Thông qua môn Tập làm văn, qua bài làm văn của mình, các em bọc lộ những tri thức, vốn sống tư tưởng, tình cảm của cá nhân. Vì thế người giáo viên phải biết nắm lấy ưu thế này để phát huy những khả năng của các em, đồng thời qua việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn giáo viên có dịp uốn nắn điều chỉnh những lệch trong vốn sống, nhận thức, tư tưởng tình cảm - đặc biệt qua các thể loại văn học mà các em sẽ học trong chương trình. Trên đây là những lí do, vị trí, vai trò của việc xây dựng đoạn văn cho học sinh THCS. Từ những mặt tích cực, hạn chế trên chúng tôi chọn đề tài này để nghiên cứu và xây dựng các bước để rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn được tốt hơn. II/ Lịch sử vấn đề Như chúng ta đã biết, vấn đề nghiên cứu, rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh đã đặt ra từ lâu nhưng chưa được quan tâm nhiều do phân môn Tập làm văn chưa được xem là phân môn chính và có nhiều quan niệm khác nhau: Trước cải cách giáp dục (Từ những năm 1980 trở về trước), phân môn Tập làm văn thuộc về môn Văn, là bộ phận của môn Văn, quan niệm Tập làm văn giúp cho học sinh tạo lập được những văn bản văn học. Đến cải cách giáo dục (1980 – 2001), Tập làm văn là một phần của môn TiếngViệt, quan niệm dạy môn này và Tiếng Việt có tính chất như là công cụ để học tốt các môn học khác. Làm văn là quá trình giúp học sinh xây dựng văn bản. Giai đoạn hiện nay: phân môn Tập làm văn có tính độc lập nhưng có mối quan hệ trực tiếp đến phần Văn và phần Tiếng Việt. Lần thay sách giáo khoa này, phân môn Tập làm văn được tích hợp cùng phân môn Văn và Tiếng Việt trong chương trình Ngữ Văn mới. Các kiểu văn bản của Tập làm văn chính là trục để xây dựng nội dung, chương trình Ngữ Văn THCS từ năm học 2002 – 2003. III/ Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu 1. Mục đích. Phân môn Tập làm văn giúp cho học sinh nắm được các thể loại trong chương trình tập làm văn ở THCS như Tự sự, Miêu tả, Biểu cảm, Nghị luận, Thuyết minh, Điều hành. Từ đó, giúp học sinh biết vận dụng các thể loại văn bản để phục vụ cho học tập, trong đời sống. Đặc biệt đề tài này sẽ giúp cho các em biết cách xây dựng đoạn văn biểu cảm nói riêng và đoạn văn thuộc các thể loại nói trên, với bố cục đoạn văn dù ngắn hay dài đều phải đảm bảo mặt nội dung và hoàn chỉnh về hình thức, hướng dẫn cho các em rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn theo bố cục ba phần: Mở bài, Thân bài, Kết luận. Mỗi đoạn văn đều bao hàm một ý chính của nó. ý chính đó, có thể đứng ở đầu đoạn văn theo cách diễn dịch hoặc đứng cuối đoạn văn theo cách qui nạp hoặc ý chính của các câu bình đẳng nhau, ngang hàng nhau theo cách song hành. Qua đó, rèn luyện cho học sinh kĩ năng diễn đạt đúng và hay bằng các hình thức nói hoặc viết, tập vận dụng một cách sáng tạo, tổng hợp những kiến thức đã tiếp thu được qua các môn Văn – Tiếng Việt và những kiến thức văn hoá xã hội để có thể nói và viết theo yêu cầu, đề tài khác nhau, những kiểu văn bản khác nhau mà cuộc sống đặt ra cho các em. Viết đoạn văn (trong phân môn Tập làm văn còn trực tiếp rèn luyện cho học sinh một số đức tính như lòng nhân ái, tính trung thực, sự kiên trìBởi vì môn này góp phần phát triển trí tưởng tượng óc sáng tạo, biết phân biệt: đúng, sai, tốt, xấu, phải, trái Từ đó, nuôi dưỡng tâm hồn học sinh hướng tới cái chân, thiện, mĩ. 2. Nhiệm vụ Người giáo viên phải nắm lấy ưu thế của học sinh như những tri thức, vốn sống, tư tưởng, tình cảm để phát huy những khả năng cao hơn. Đồng thời, qua đó uốn nắn, điều chỉnh, hạn chế những lệch lạc trong nhận thức, vốn sống, tư tưởng, tình cảm của các em. Củng cố kiến thức Tiếng Việt và Văn học góp phần bồi dưỡng tâm hồn, trí tuệ để học sinh biết rung động trước cái hay, cái đẹp, hướng các em tới nhu cầu thẩm mĩ, sáng tạo và biết tôn trọng những giá trị thẩm mĩ khi xây dựng đoạn văn. Là bộ môn khó, đặc biệt yêu cầu kĩ năng càng khó hơn, đòi hỏi chúng ta phải dày công, kiên trì dạy các em. Qua đó, hình thành thói quen, kĩ năng phân tích đề, lập dàn ý, dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, trình bày, diễn đạt. Trong đó, cách viết đoạn, dựng đoạn càng quan trọng trong bước đầu tạo lập viết đoạn, dựng đoạn càng quan trọng trong bước đầu lập văn bản. Cũng từ dựng đoạn, nhiệm vụ của giáo viên Ngữ Văn là phát huy năng lực tư duy, năng lực sử dụng ngôn ngữ, giúp các em biết tích luỹ vốn kiên thức, biết huy động vốn kiến thức, biết đặt ra các vấn đề và giải quyết các vấn đề ấy. Qua đó, biết trình bày kết quả tư duy của mình một cách rõ ràng, chặt chẽ, có sức thuyết phục trước từng vấn đề, từng kiểu văn bản khi viết đoạn và trong giao tiếp. Là phân môn có tính thực hành cao, nên giáo viên cần cho học sinh đọc nhiều đoạn văn mẫu, viết nhiều đoạn văn để tạo lập văn bản được dễ dàng hơn. Đó là những mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của giáo viên Ngữ văn trong bước rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS. IV/ Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Điều tra các đối tượng học sinh, phạm vi nghiên cứu ở một số trường trong Huyện. Đối tượng phần lớn là học sinh khối lớp 7 - bậc THCS. V/ Phương pháp nghiên cứu. Trước hết, chúng ta phải có cái nhìn khái quát toàn bộ chương trình ở cấp THCS như sau: Chương trình Tập làm văn THCS đồng tâm với chương trình Tập làm văn của Tiểu học nhưng ở yêu cầu cao hơn, tiếp tục và hoàn chỉnh chương trình ở THCS, mở rộng các thể văn mới hơn, yêu cầu cao hơn đối với học sinh. Chương trình Tập làm văn có mối quan hệ khá rõ ràng: Giữa Văn – Tiếng Việt – Tập làm văn. Để trở thành thao tác tốt viết đoạn văn, giáo viên hướng dẫn học sinh như cách dùng từ đặt câu và cao hơn là dựng đoạn. Vì vậy, có thể nói học sinh được học và thực hành 15 loại văn bản ở bậc THCS, đủ để giao tiếp bằng văn bản và tiếp tục học lên ở những bậc trên. 1.Phương pháp lí thuyết. Bước đầu dạy cho học sinh những khái niệm về từng thể loại văn, làm quen với những đề văn mẫu, những bài văn mẫu và tìm hiểu cụ thể từng bài qua các tiết học: Lí thuyết về đoạn văn. Qua đó, giúp học sinh học, tìm hiểu cách xây dựng đoạn văn, bố cục đoạn văn, các câu chốt (câu chủ đề) trong đoạn văn, viết theo các cách diễn dịch, qui nạp, song hành, móc xích Từ đó, cho học sinh tập viết đoạn văn, có vận dụng lí thuyết về thể loại văn ấy. Tuy nhiên, phương pháp lí thuyết không quá nặng. 2.Phương pháp nghiên cứu, tìm hiểu. Học sinh là chủ thể trong quá trình dạy học để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các em trong quá trình tiếp nhận. Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu cho học sinh tự thân vận động là chính, giáo viên im lặng đến mức tối đa để khuyến khích học sinh sáng tạo trong giờ Tập làm văn. Vậy, trong tiết học Tập làm văn mà đặc biệt là tiết rèn luyện viết đoạn văn, hướng dẫn các kĩ năng nghiên cứu, tìm hiểu để vận dụng các kiến thức đã học để dựng đoạn theo đặc điểm thể loại để tạo lập văn bản. 3.Phương pháp kiểm tra, khảo sát. Với phương pháp này, đòi hỏi học sinh phải thực hành liên tục, chắc chắn các thao tác từ lí thuyết về thể loại sau đó đến nghiên cứu, tìm hiểu. Từ đó, ta mới đi vào kiểm tra, khảo sát để thấy được sự vận dụng tổng hợp, để sáng tạo văn bản qua nhiều bước trong quá trình rèn luyện các kĩ năng. Đó là điều kiện để đánh giá học sinh thông qua bài kiểm tra, bài viết ở lớp (hoặc ở nhà) đòi hỏi phải đánh giá đúng năng lực của học sinh và đòi hỏi một sự nhạy cảm của thầy trước yêu cầu thực hành của học sinh. 4. Phương pháp cố vấn, chuyên gia. Đây là những phương pháp khó đối với học sinh. Học sinh thường không chú ý đến những cái khó khăn này và cũng không cần hỏi ai những vấn đề cần tháo gỡ, cần đến chuyên gia cố vấn. Mặc dù, mức độ lí thuyết mang tính trừu tượng, việc kiểm tra, đánh giá, cố vấn, chuyên gia, giáo viên giúp học sinh vận dụng kiến thức vào viết văn rõ ràng hơn. Như vậy, việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nói chung và viết đoạn văn biểu cảm nói riêng giáo viên phải định hướng cho các em biết đối chiếu giữa thực hành và lí thuyết, đối chiếu kết quả thực hành của mình với yêu cầu chung. Nhưng ... huyên đề thay SGK THCS và các bước tiến hành như đã trình bầy trên đây chúng ta thấy: Số bài khá, giỏi chiểm tỉ lệ quá thấp. Số bài điểm yếu, kém vẫn chiếm tỉ lệ lệ cao. Rõ ràng nếu không có sự nghiên cứu, đầu tư các cách dạy học, ôn luyện cho HS thì hiệu quả thực hành viết đoạn văn trong văn bản của các em là rất thấp. Nếu không tổ chức các buổi ôn tập một cách bài bản, khoa học đúng theo phương pháp đổi mới thì sẽ tạo cho các em sự hứng thú, say mê, tích cực trong giờ làm văn. Ngược lại khi đã vận dụng triệt để các bước dạy học làm văn (như đã thực hiện ở lớp 7C) thì học sinh hoàn toàn chủ động tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức và vận dụng các kĩ năng làm văn vào quá trình xây dựng đoạn văn - tạo lập văn bản. Và tất yếu HS sẽ thích học phân môn TLV. Hiệu quả dạy học sẽ cao hơn. Qua đây chúng ta thấy: Thời lượng giành cho luyện tập viết đoạn văn trong tiết dạy chính khoá là quá ít. Vì vậy, HS chưa được rèn luyện nhiều để viết đoạn, tạo lập văn bản. Điều cốt lõi là làm sao đó trên mỗi trang giáo án, mỗi tiết dạy học thực hành – rèn kĩ năng làm văn cho học sinh đều thể hiện tính nghiêm túc của người dạy và những nét tình cảm nghề nghiệp, tình yêu con trẻ, những dấu ấn cảm xúc cá nhân trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, soạn giảng. * Một vài đoạn văn tiêu biểu: 1. “Trăng bao nhiêu tuổi trăng già, Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non ? Trăng bao nhiêu tuổi trăng tròn Núi bao nhiêu tuổi núi còn trơ trơ ?" ( Ca dao) Bài ca dao “ Trăng bao nhiêu tuổi trăng già”, được viết bằng thơ lục bát và câu hỏi tu từ. Trăng và núi là hai ẩn dụ. Sự đối đáp ở đây không phải là câu đố về thiên nhiên ( núi, trăng) như có người đã nhầm tưởng. Mà sự giao, ướm hỏi ( ướm duyên) rất tình tứ, tế nhị của trai gái làng quê ngày xưa. Mộtk cách tỏ tình rất duyên dáng và biểu cảm. 2. “Trưa về đến sau đồi Gọi con như mọi bận Mà không nghe trả lời Thì mẹ ơi đừng giận Nhìn vở bài toán đố Con làm còn dở dang Bỏ quên bên cửa sổ Đừng bảo con không ngoan Sân nhà đầy lá rụng Mẹ đừng trách con lười Thấy áo con đẫm máu Mẹ đừng khóc mẹ ơi ! Giặc mĩ nó nhằm con Mà bắn vào tim mẹ Đừng khóc con mẹ nhé Khóc sao hả căm thù”. ( Nguyễn Lê) Bài thơ “Mẹ” của Nguyễn Lê nói lên nỗi đau đớn và cà căm thù của người mẹ có đứa con ngoan bị máy bay Mĩ bắn chết. Vở bài toán đố còn dở dang con để lại bên cửa sổ; Chiếc áo đẫm máu của con như những vật kí thác đau thương. Hồn con hiện về nói với mẹ, an ủi mẹ. Con vốn rất ngoan ngoãn, nhưng nay con không thể nào quét sân giúp mẹ được nữa rồiGiặc mĩ băn chêt con là chúng nó đã băn vào tim mẹ. “Đừng khóc con mẹ nhé”, vì khóc con “ sao hả căm thù” mẹ ơi ! Một tứ thơ rất độc đáo nói lên nỗi lòng đau thương con và căm thù giặc Mĩ của bà mẹ Việt Nam. Nhà biểu lộ niềm cảm thương đau đớn đối với những em thơ gần xa đã bị giặc Mĩ giết hại một cách tàn ác. 3. “ Bão bùng thân bọc lấy thân, Tay ôm, tay níu, tre gần nhau thêm”. Đấy là hai câu thơ đặc sắc nhất trong bài “ Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy. Tre không chỉ là vẻ đẹp thân mật của làng quê Việt Nam mà là biểu tượng cho những phẩm chất cao quý của người dân Việt Nam. Cũng như tre gắn bó với nhau “ nên luỹ, nên thành”, người dân cày Việt Nam, trong “bão bùng”, gian khổ, biết yêu thương đoàn kết che chở nhau “ thân bọc lấy thân”, bảo vệ nhau “ tay ôm tay níu” để cùng tồn tại, phát triển trong hạnh phúc. Điệp từ làm cho ý thơ được nhấn mạnh, giọng thơ êm ái nhịp nhàng, gợi cảm. Niềm thương mến và tự hào của tác giả được diễn tả trong một vần thơ hàm súc, hình tượng và truyền cảm sâu sắc. 4.. Đêm đã về khuya, không gian yên tĩnh. chỉ có suối trong thanh như tiếng hát từ xa vọng lại. Trăng sáng vằng vặc ôm trùm những ngọn cây. Bóng hoa in trên mặt đất tạo nên những chùm hoa lung linh. Giữa cảnh khuya lộng lẫy yêu kiều ấy có một người chưa ngủ, đó là Bác kính yêu. Bác chưa ngủ không phải để ngắm cảnh đẹp mà vì lòng còn nặng nỗi lo toan việc nước”. 5. "Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” Ngọn lửa “ chờn vờn sương sớm” là ngọn lửa thực trong lòng bếp, bập bùng nhen lên mỗi sớm mai. Nhưng ngọn lửa “ ấp iu nồng đượm” là ngọn lửa của tình bà chăm sóc cưu mang theo trình tự thơ, ngọn lửa chập chờn, bập bùng, hình tượng thơ cứ tỏ dần, tỏ dần: Bên bếp lửa là dáng hình của bà qua nắng mưa, năm tháng. ( Bài làm của học sinh) Phần thứ ba: kết luận và đề xuất 1. Việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS có tầm quan trọng rất lớn trong việc dạy và học Tập làm văn. Nó chiếm vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của trường THCS, góp phần hình thành con người có trình độ học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho họ học ở bậc cao hơn, hoặc vận dụng vào thực tiễn cuộc sông. Xét về môn học, đây là phân môn thực hành tổng hợp ở mức độ cao của phân môn Văn và Tiếng Việt, nó có mối tương quan chặt chẽ với văn và Tiếng Viết. Dạy luyện viết đoạn văn là dạy cho học sinh nắm bắt văn bản, biết xây dựng các loại văn bản thông thường. Ta hiểu đầy đủ rằng dạy cách viết đoạn văn là dạy cho học sinh hiểu từng loại văn bản cụ thể, cách xây dựng đoạn văn trong bất kì loại văn bản nào. Đây là bước đi, thao tác, cách thức trong quá trình học tập văn bản. Trong chương trình hiện nay, bộ môn Tập làm văn được tích hợp cùng phân môn Văn và Tiếng Việt trong chương trình Ngữ Văn mới .Tiết dạy dựng đoạn trong văn bản cũng được quan tâm nhiều hơn trong việc nắm đượ thể loại trong chương trình. Từ đó, rèn luyện cho học sinh kĩ năng diễn đạt đúng và hay bằng các hình thức, thao tác mà chủ yếu là viết đoạn văn một cách sáng tạo tổng hợp những kiến thức tiếp thu được qua phân môn Tiếng Việt và văn học. Viết đúng, viết hay là nhiệm vụ hàng đầu mà giáo viên quan tâm, yêu cầu viết đúng về đề tài thể loại, những kiểu văn bản khác nhau trong cuộc sống đặt ra cho các em. Ngoài ra, qua việc rèn luyện viết đoạn văn cũng trực tiếp tham gia rèn luyện một số đức tính cho sinh như lòng nhân ái, tính trung thực, sự kiên trì lòng dũng cảmViết đoạn văn góp phần phát triển trí tưởng tượng, óc sáng tạo để tử từ đó giúp các em biết phân biệt cái sai, cái tốt, cái xấu... Và cũng từ đây các em được nuôi dưỡng tâm hồn vươn tới cái tốt đẹp hơn. Qua tiết học, ta nắm được ưu thế của học sinh và phát huy được những khả năng làm văn của các em. Từ đó, học sinh có dịp để uốn nắn điều chỉnh, hạn chế những lệch lạc trong nhận thức, đời sống tư tưởng tình cảm của của các em. Cũng từ đó, hiệu quả giáo dục của Tập làm văn nói chung, viết đoạn văn nói riêng được nâng cao và được học sinh yêu thích. Qua việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn, học sinh được uốn nắn, điều chỉnh, hạn chế những thiếu sót trong quá trình làm văn ở những cấp học cao hơn. Ngoài ra các em còn được bồi dưỡng về tâm hồn, trí tuệ, biết rung động trước cái đẹp, biết hướng tới giá trị thẩm mĩ, có năng lực sử dụng ngôn ngữ, bjiết tích luỹ vốn tri thức và vận dụng trong giao tiếp ở mọi hoàn cảnh khác nhau. Dùng từ đặt câu, viết đoạn sẽ được các em vận dụng tốt trong mọi điều kiện để hướng tới cái chân – thiện – mĩ, biết tự hào và sử dụng Tiếng Việt trong sáng, hoàn mĩ hơn. Cũng từ việc rèn kĩ năng viết đoạn giúp học sinh vận dụng để viết được nhiều đoạn văn và viết tốt ở nhiều thể loại. 2. Tuy nhiên, việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn vẫn còn nhiều hạn chế. Vì đây là một tiết khó của môn học, nếu đơn thuần giáo viên không hướng dẫn cụ thể về cách tìm hiểu đề, tìm ý, mỗi ý tương ứng với bao nhiêu đoạn trong văn bản. Hoặc học sinh chưa tìm được câu chủ đề để từ đó phát triển mở rộng thành đoạn văn. Để tích hợp được với văn và Tiếng Việt, giáo viên chưa hướng dẫn khái niệm đoạn văn, câu chủ đề, quan hệ giữa các câu và cách trình bày đoạn văn. Qua đó, giúp học sinh rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn theo các yêu cầu về cấu trúc và ngữ nghĩa. Hạn chế nữa là trong chương trình SGK Ngữ Văn THCS học sinh không được học các nội dung trình bày trong đoạn văn theo các đặc điểm, cấu trúc diễn dich, qui nạp, song hành, móc xích. Do đó, khi xây dựng đoạn văn, học sinh rất lúng túng trong việc đặt vị trí câu chủ đề trong đoạn. Hơn nữa, trong quá trình luyện viết các đoạn văn, học sinh còn lúng túng trong việc tìm hiểu đề, xác định ý, xây dựng câu chủ đề. Khi lựa chọn các phép liên kết câu, liên kết đoạn trong văn bản các em còn vụng về, đôi khi không nắm vững các đơn vị kiến thức này. Và việc lựa chọn, dùng từ đặt câu ở một số học sinh còn nhiều hạn chế: như dùng từ, ngữ không trong sáng, thiếu trau chuốt, từ ngữ không có tính lôgic. Hơn nữa, giáo viên chưa thật kiên trì trong việc cung cấp những đơn vị kíên thức về xác định ý, viết câu chủ đề, xây dựng đoạn theo các đặc điểm (diễn dịch, qui nạp), các phép liên kết câu, liên kết đoạn, và uốn nắn cách viết đoạn cho học sinh. kiến nghị và đề xuất Sắp xếp số lượng kiến thức hợp lí cho một tiết dạy có khả năng phát huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh mà các em học không bị nhàm chán. Các đoạn văn mẫu phải đa dạng phong phú hơn về từng lượng kiến thức. Tiết học mang nặng tính thực hành, nên cho học sinh thực hành nhiều, viết nhiều các đoạn văn (tất nhiên không qúa thời gian tiết học và sức tiếp thu của học sinh). Trong việc đánh giá, giáo viên cần quan tâm, nhận xét đúng trước năng lực thực hành của mỗi học sinh. ở đây đòi hỏi sự nhạy cảm của thầy trước yêu cầu thực hành, trước những thao tác và kĩ năng thực hành của học sinh. Yêu cầu giáo viên dày công luyện tập cho các em, kiên trì trong việc đánh giá kết quả không nên nóng vội, có tinh thần trách nhiệm cao. Tuỳ từng đối tượng ở các khối lớp, tuỳ từng vùng để có phương pháp vận dụng đúng đắn. Với phương châm là người truyền đạt kiến thức và chủ thể tiếp nhận kiến thức và mục đích cuối cùng là viết được các đoạn văn sáng tạo với đầy đủ các kĩ năng mà các em tiếp thu được. Về số lượng tiết học viết đoạn văn còn quá ít, nên tăng cường thêm số lượng cũng như thời gian cần được phân bố cân đối hài hoà để tránh học sinh ngại học căng thẳng mà ngược lại các em ham học hơn. Trong sự phát triển đi lên của đất nước và của văn học nước nhà, văn học nhân loại, trong đó có không ít các nhân tài đất nước là giáo viên, là học sinh- chủnhân tương lai của đất nước. Vì vậy việc dạy chữ, dạy người là rất cần thiết. Đặc biệt trong nhà trường THCS việc hình thành nhân cách, việc tiếp cận với kiến thức nhân loại, phân biệt cái tốt, cái xấu, cái phải cái trái đối với học sinh cũng là vấn đề then chốt. Hơn nữa, giúp các em ham học, thích học môn văn (trong đó có môn Tập làm văn, thực hành các kĩ năng viết các đoạn văn) cũng là vấn đề mà giấo viên cần nghiên cứu. Vì vậy, chúng ta cần quan tâm hơn nữa để phát huy những tài năng sẵn có còn tiềm ẩn trong mỗi cá nhân học sinh, giúp các em hoàn thiện nhân cách, phát huy vốn tri thức của nhân loại làm giàu cho quê hương đất nước.
Tài liệu đính kèm: