Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học Ngữ Văn

Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học Ngữ Văn

LỜI MỞ ĐẦU

 Hiện nay, môn Ngữ văn là một trong những môn học chính ở các trường THCS, THPT và cũng là một trong những môn chính trong các kỳ thi tốt nghiệp. Còn đối với xã hội, môn Ngữ văn cũng góp phần quan trọng trong việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp, viết lách, giúp mọi người trau chuốt lời nói, lời văn của mình, bồi dưỡng cho con người những tình cảm tốt đẹp và hình thành nhân cách và hoàn thiện nhân cách của mình qua việc học môn Văn như Hoài Thanh đã nói:

“ Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có, cuộc đời phù phiếm và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm và rộng rãi đến trăm nghìn lần.”

( Ý nghĩa văn chương trong Bình luận văn chương của Hoài Thanh).

 Còn trong nhà trường phổ thông môn Ngữ văn giúp các em học sinh rèn luyện và hoàn thiện nhân cách của mình “ Văn học là nhân học” .

Nhưng trong quá trình giảng dạy trong 03 năm qua ở trường THCS Bình Thạnh, tôi nhận thấy một bộ phận không nhỏ học sinh chưa nhận thức đuợc tầm quan trọng của môn học này. Hơn thế nữa, các em quá thờ ơ với môn Ngữ Văn .

 Vì vậy việc tạo hứng thú cho các em trong giờ học Ngữ Văn nhằm giúp cho các em học tốt hơn bộ môn Ngữ văn ở trường phổ thông là rất quan trọng và cần thiết, góp phần nâng cao chất lương GD và củng là trách nhiệm của giáo viên dạy văn.

 

doc 14 trang Người đăng haiha30 Lượt xem 1635Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học Ngữ Văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
	Hiện nay, môn Ngữ văn là một trong những môn học chính ở các trường THCS, THPT và cũng là một trong những môn chính trong các kỳ thi tốt nghiệp. Còn đối với xã hội, môn Ngữ văn cũng góp phần quan trọng trong việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp, viết lách, giúp mọi người trau chuốt lời nói, lời văn của mình, bồi dưỡng cho con người những tình cảm tốt đẹp và hình thành nhân cách và hoàn thiện nhân cách của mình qua việc học môn Văn như Hoài Thanh đã nói:
“ Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có, cuộc đời phù phiếm và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm và rộng rãi đến trăm nghìn lần.”
( Ý nghĩa văn chương trong Bình luận văn chương của Hoài Thanh).
	Còn trong nhà trường phổ thông môn Ngữ văn giúp các em học sinh rèn luyện và hoàn thiện nhân cách của mình “ Văn học là nhân học” .	
Nhưng trong quá trình giảng dạy trong 03 năm qua ở trường THCS Bình Thạnh, tôi nhận thấy một bộ phận không nhỏ học sinh chưa nhận thức đuợc tầm quan trọng của môn học này. Hơn thế nữa, các em quá thờ ơ với môn Ngữ Văn .
	Vì vậy việc tạo hứng thú cho các em trong giờ học Ngữ Văn nhằm giúp cho các em học tốt hơn bộ môn Ngữ văn ở trường phổ thông là rất quan trọng và cần thiết, góp phần nâng cao chất lương GD và củng là trách nhiệm của giáo viên dạy văn.
	Song những vấn đề trong đề tài này chưa phải là tốt nhất, tôi rất mong sự đóng góp của Hội đồng khoa học trường và quý đồng nghiệp trong tổ chuyên môn để tìm ra nhiều biện pháp hữu hiệu hơn giúp nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ văn ở trường THCS Bình Thạnh ngày càng tốt hơn .
 Bình Thạnh , ngày 12 tháng 02 năm 2011	Người nghiên cứu
	 Trần Thị Ngọc Hân 
A. PHẦN MỞ ĐẦU 
	I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI, SKKN 
[
 Trong cuộc sống hàng ngày, mọi người phải có giao tiếp, giao tiếp để tìm hiểu mọi người xung quanh, giao tiếp để kết bạn, giao tiếp để sản xuất, kinh doanh Muốn như thế thì mọi ngừơi cần có vốn kiến thức, lời nói phải lịch sự, trong sáng, đầy đủ ý nghĩa, đúng từ, tròn câu Như vậy để thành công trong giao tiếp thì mọi người chúng ta phải học tập và việc học tập ấy phải bắt đầu từ khi còn ở ghế nhà trường.
 Trong giai đoạn hiện nay, với nền kinh tế thị trường, với nhịp sống công nghiệp hối hả, cùng với sự phát triển như vũ bảo của công nghệ thông tin đã ít nhiều làm vai trò của văn học dần bị mai một, bị xem nhẹ. Trong các nhà trường phổ thông hiện nay, học sinh quan tâm nhiều đến những môn: Toán, Lý, Anh văn, Hóa xem nhẹ môn văn, không thích học và học yếu môn văn.
 Như chúng ta đã biết, mục tiêu của nền Giáo dục (GD) Việt Nam là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện để đáp ứng cho nhu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ Quốc và hội nhập. Chính vì vậy Giáo dục Việt Nam phải luôn đổi mới, không ngừng nâng cao chất lượng để có thể đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay. Trong các năm gần đây đã có những đổi mới về chương trình, Sách giáo khoa (SGK), đổi mới kiểm tra đánh giá và điều cấp thiết là đổi mới phương pháp dạy học để đáp ứng được những nhu cầu, phát triển xã hội nhằm tạo ra sự chuyển biến về chất lượng giáo dục ngày một tốt hơn. Tuy vậy, chất lượng Giáo dục nói chung và chất lượng học tập của học sinh các trường phổ thông nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế. Thực tế cho thấy học sinh (HS) ở trường THCS Bình Thạnh nói riêng và các trường phổ thông nói chung yêu thích và học tốt môn Ngữ văn nhưng vẫn còn một bộ phận học sinh chưa ý thức được tầm quan trọng, không thích dẫn đến việc học yếu môn ngữ văn. Bởi thế trong những năm qua chất lượng học Ngữ văn của học sinh ở trường THCS Bình Thạnh còn thấp, chưa có học sinh giỏi văn các cấp.
 Có thể nói Văn học từ xa xưa với chức năng cao đẹp của nó trải qua lịch sử cả ngàn năm đã góp phần hun đúc bồi dưỡng, tình cảm, nhân cách, thẩm mỹ cho con người Việt Nam qua các thế hệ. Ngữ văn góp phần không nhỏ trong việc giao tiếp, hành văn, trau dồi kiến thức từ vựng, ngữ pháp, sử dụng từ, đặt câu Đặc biệt là khả năng tự hoàn thiện nhân cách cho mình vì “ Văn học là nhân học”. Bởi những điều đó đã góp phần hình thành nên những con người yêu quê hương, đất nước, giàu lòng nhân ái, đề cao chính nghĩa, ghét gian tà!
 Môn Ngữ văn hiện nay còn là môn thi chính ở cấp học phổ thông, các kỳ thi tuyển sinh Cao đẳng, Đại học các khối C, D và các kỳ thi trung học chuyên nghiệp hay học nghề 
 Chính vì vậy mà tôi muốn góp chút sức lực của mình với nhiệt huyết của một giáo viên trẻ để làm thay đổi nhận thức của các em đối với môn Ngữ văn và làm cho các em yêu thích môn học này hơn, học tốt hơn, và trả lại cho môn Ngữ văn vị trí xứng đáng mà nó vốn có.
 II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI, SKKN 
Mục đích nghiên cứu:
Giúp cho học sinh nhận thức được tầm quan trọng của bộ môn Ngữ văn trong việc học tập, thi cử hay giao tiếp ngoài xã hội, tạo điều kiện cho các em hứng thú học môn Ngữ văn, làm cho các em ngày một thêm say mê học tập và nghiên cứu văn chương góp phần nâng cao chất lượng dạy và học .
	Loại bỏ những quan niệm không đúng trong việc học tập bộ môn Ngữ Văn của các em đã tồn tại bấy lâu nay, nhất là thái độ, ý thức của các em trong học tập đặc biệt là đối với môn Ngữ Văn .
Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp phỏng vấn, nghiên cứu tài liệu;
Phương pháp khảo sát; so sánh, đối chiếu;
Tham khảo ý kiến đồng nghiệp, lãnh đạo.
III. PHẠM VI, GIỚI HẠN ĐỀ TÀI, SKKN.
 	 Trong đề tài, Skkn này, tôi chỉ giới hạn tìm hiểu và thực hiện các giải pháp đối với học sinh 02 lớp 7a1, 7a2 của trường THCS Bình Thạnh. Tìm hiểu, đánh giá tình cảm của học sinh đối với môn Ngữ Văn, tình hình học tập môn Văn và tìm ra các cách làm, các giải pháp nhằm thu hút, tạo hứng thú, niềm vui cho học sinh trong giờ Văn, từ đó làm cho các em yêu thích và dần học tốt môn Văn trong năm học lớp 7 và các năm còn lại của bậc THCS.	
 	IV. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN.
	Đề tài sáng kiến kinh nghiệm được thực hiện trong năm học 2010 – 2011
Tháng 9, 10: Tìm hiểu thực trạng dạy và học Ngữ Văn ở khối 7 đặc biệt là hai lớp phụ trách.
Tháng 11, 12: Triển khai, áp dụng các giải pháp.
Tháng 01: Sơ kết đánh giá hiệu quả, điều chỉnh giải pháp (nếu có).
Tháng 2, 3, 4: Tiếp tục triển khai các giải pháp.
Tháng 5: Tổng kết, báo cáo, rút kinh nghiệm.
B. PHẦN NỘI DUNG.
 I. Cơ sở lý luận. 
- Luật giáo dục nước ta có chỉ rõ “ phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học khả năng tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên
 - Chỉ thị 14/2001/ CT – TTg của Thủ tướng chính phủ khẳng định mục tiêu của việc đổi mới chương trình và SGK phổ thông là: “ Nâng cao chất lượng GD toàn diện, tăng cường bồi dưỡng cho thế hệ trẻ lòng yêu nước, yêu quê hương và gia đình”.
 - Chủ đề năm học 2009 – 2010 của Ngành GD “ Đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục”.
 - Chủ đề năm học 2010 – 2011 của Ngành là: “ Năm học tiếp tục đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục”.
 - Các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương trong vài năm trở lại đây cũng quan tâm nhiều hơn đến vấn đề: Nâng cao chất lượng Giáo dục và Đào tạo. Nhiều hội thảo cấp huyện, cấp xã đã được tổ chức điển hình “ Hội thảo nâng cao chất lượng giáo dục trên địa bàn huyện Cao Lãnh ngày 14/08/2008”; “Hội thảo nâng cao chất lượng giáo dục trên địa bàn xã Bình Thạnh ngày 29/08/2008”; “ Hội nghị sơ kết một năm thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục trên địa bàn xã Bình Thạnh ngày 26/08/2009” và mới đây là “ Hội thảo giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo năm học 2010 – 2011 ngày 13/10/2011 của huyện Cao Lãnh”.
 Tất cả đều nhằm tìm các giải pháp hiệu quả để nâng cao chất lượng dạy và học.
 II. Cơ sở thực tiễn.
 1. Thuận lợi.
- Lãnh đạo nhà trường quan tâm và tạo mọi điều kiện để giáo viên thực hiện tốt công tác giảng dạy.
- Các lớp được phân công giảng dạy có nhiều học sinh học khá, giỏi.
- Đa số học sinh có ý thức học tập khá tốt.
- Hs có đủ SGK để học.
- Đa số các em được sự quan tâm của cha, mẹ. Gia đình tạo điều kiện tốt cho các em yên tâm học tập (có mở được lớp học dạy bằng máy chiếu).
 2. Khó khăn.
- Cơ sở vật chất của nhà trường còn khó khăn, thiếu thốn chưa tạo diều kiện tốt nhất cho việc dạy và học.
- Học sinh yếu vẫn còn khá nhiều, tinh thần, ý thức học tập của một số học sinh chưa tốt.
- Có khá nhiều học sinh không yêu thích môn Văn.
- Nhận thức của PHHS và HS còn xem nhẹ môn Văn.
- Là HS nông thôn nên việc đọc sách, báo, tài liệu học tập nhất là phân môn văn còn rất hạn chế.
- Ngày nay văn hóa nghe, nhìn ngày càng lấn át văn hóa đọc.
- Áp lực công việc của một giáo viên hiện nay khá lớn, thời gian rãnh rỗi của một giáo viên nói chung cũng như của bản thân rất ít. 
- Thời gian biểu học tập của bản thân học sinh quá nhiều như: học trên lớp, học bồi dưỡng, học thêm, học Vi tính, học Anh vănnên có rât ít thời gian để nghiên cứu bài học đặc biệt là bài học môn Văn..
 III. Thực trạng và những mâu thuẫn:
 Đầu năm tôi thử khảo sát HS ở các lớp mình dạy bằng một số câu hỏi. Để khách quan tôi photo sẵn những câu hỏi trắc nghiệm để HS dễ trả lời. Chẳng hạn:
 - Em có thích học môn Văn không?
 a. Có b. Không
 - Tình cảm của em đối với môn Văn như thế nào?
 a. Không thích. B. Bình thường. c. Thích. D. Rất thích.
 - Vì sao em không thích học môn Văn?
 Do môn Văn không đáp ứng được những yêu cầu thực tế;
Học môn Văn không thi được vào những ngành kinh tế;
Do bản thân không thích học môn Văn;
Do gvbm dạy không hay, không hấp dẫn, nhàm chán;
Vì môn Văn khó học, khó tiếp thu..
 Qua khảo sát tôi có kết quả như sau:
Lớp
TSHS
Không thích
Bình thường
Thích
Rất thích
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
7A1
40
12
30%
14
35%
12
30%
02
5%
7A2
41
18
43,9%
12
29,3%
10
24,4%
01
2,4%
Tc
81
30
37%
26
32,1%
22
27,2%
03
3,7%
- Kết quả khảo sát nguyên nhân của các em không thích môn Văn:
Lớp
TSHS
Bản thân không thích học
Môn văn khó học
Môn văn không đáp ứng được nhu cầu thực tế
Gv dạy không hay, không hấp dẫn.
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
7A1
12
6
50%
02
16,7%
02
16,6%
02
16,7%
7A2
18
8
44,4%
6
33,3%
03
16,7%
01
5,6%
Tc
30
14
46,7%
8
26,7%
05
16,6%
03
10%
Tại sao lại có kết quả khá đông HS không thích học môn Văn như thế? Có thể ngoài những nguyên nhân tôi nêu ở phần lý do chọn đề tài còn có lý do thuộc về người dạy. Giáo viên dạy Văn nếu không chịu khó đầu tư tốt cho bài giảng, không chịu khó tìm tòi và đầu tư thời gian để thực hiện các giải pháp hỗ trợ khác thì việc HS nhàm chán, cảm thụ không sâu các tác phẩm, không thấy gì hấp dẫn, thu hút thì dẫn đến HS không thích học, học yếu là điều tất nhiên.
	Qua việc tìm hiểu và điều tra xã hội học tình hình học tập môn Ngữ Văn của học sinh tại trường THCS Bình Thạnh, tôi nhận thấy k ... hơn và từ đó các em mạnh dạn hơn, tự tin hơn.
Thảo luận nhóm là một phương pháp dạy học không mới nhưng nếu áp dụng hợp lý, đúng nghĩa thì đó là một giải pháp hữu hiệu trong việc gây hứng thú của HS trong tiết học. 
Ví dụ khi lớp thảo luận nhóm, tôi khuyến khích học sinh nêu ra những ý tưởng mới lạ, độc đáo nếu ý đó hay,mới lạ và đúng thì giáo viên khen ngợi và phát huy trong các tiết tiếp theo, nhóm nào có kết quả tốt nhất, tôi cho điểm khuyến khích. Đây là cách tập trung các em lại trong giờ học, giờ thảo luận nhóm, các em sẽ phát huy hết khả năng của mình và bàn luận sôi nổi hơn để tìm ra câu trả lời đúng nhất mà hay nhất, và khi các nhóm trình bày thì các nhóm khác còn lại tập trung vào kết quả của nhóm bạn để nhận xét, bổ sung, như vậy vừa giúp các em tập trung vào giờ học vừa giúp các em phát huy được khả năng tư duy và hoàn thành tốt nội dung bài học.
 - Trong một số tiết học, tôi còn tổ chức cho các em tham gia trò chơi giải ô chữ hay lật tranh để đoán ra được những hình ảnh liên quan tới bài học, cho các em xem những bức tranh minh họa sinh động hơn trong các tiết học ( thực hiện nhiều ở lớp ứng dụng công nghệ thông tin).
Trong quá trình dạy, tôi cũng thường lấy ý kiến của các em qua các phiếu lấy ý kiến, đơn giản chỉ là một câu hỏi cho một lần thu thập ý kiến của các em thôi. Như: “ Hôm nay, cô trò ta dạy và học như thế nào?” hay “ Các em có đề nghị cô việc gì không?”. Các em sẽ nói lên hết những suy nghĩ của các em trong giờ học đó. Với những câu hỏi tương tự như vậy, tôi mới hiểu hết được tâm tư, nguyện vọng của các em trong giờ học. Và từ đó, tôi cố gắng tạo tiết học Văn trở nên hấp dẫn, thích thú hơn từ những câu chuyện, lời văn, câu giảng của tôi
V. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG.
Sau khi nghiên cứu đề tài này, tôi dự kiến sẽ đóng góp vào việc dạy và học bộ môn Ngữ văn ở trường THCS Bình Thạnh một số vấn đề cơ bản như sau :
a) Về phía tổ chuyên môn
 Làm cơ sở khi trao đổi chia sẽ với đồng nghiệp trong sinh hoạt chuyên môn nhằm giúp giảng dạy tốt hơn trong giờ dạy học Ngữ văn.
	Làm tư liệu tham khảo chuyên môn cho giáo viên trong tổ khi cần thiết.
	Chia sẽ kinh nghiệm nghiên cứu khoa học cho nhau .
 b) Về phía giáo viên
	Giáo viên bộ môn Ngữ văn phải làm cho Hs thấy rõ tầm quan trọng của môn Ngữ Văn rèn cho chúng ta có thêm vốn từ vựng, làm giàu thêm cho tình cảm của chúng ta, làm cho vốn tri thức của chúng ta ngày càng mở rộng.
	Văn học góp phần vun đắp, bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn ta thêm trong sáng như một vầng trăng, mượt mà như một làn điệu ca dao – dân ca 
	Người giáo viên phải biết khởi động và kích thích sự hứng thú học tập văn học của từng đối tượng học sinh mình phụ trách đặc biệt là phải tôn trọng quan điểm lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên chỉ là người hướng dẫn còn học sinh phải chủ động tìm ra kiến thức và lĩnh hội nó.
	c) Về phía học sinh
	- Có ý hơn, tích cực hơn, say mê, hứng thú hơn trong việc học tập, nghiên cứu bộ môn Ngữ Văn .
	- Nâng cao chất lựong học tập môn Ngữ Văn trong nhà trường.
	- Không còn tư tưởng học thiên, học lệch mà các em chủ động và tích cực hơn trong học tập .
	 - Có phương pháp thích hợp trong việc học tập môn Ngữ Văn cũng như các môn học khác của mình.
 - Nâng cao năng lực viết và sáng tạo văn học .	
 KẾT QUẢ
 Qua thời gian áp dụng vào quá trình giảng dạy Ngữ văn 7 đã đạt được kết quả như sau:
 - Thái độ của các em đối với môn Ngữ văn:
Lớp
TSHS
Không thích
Bình thường
Thích
Rất thích
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
7A1
40
5
12,5%
7
17,5%
23
57,5%
05
12,5%
7A2
41
8
19,5%
8
19,5%
22
53,7%
03
7,3%
Tc
81
13
16%
15
18,5%
45
55,6%
08
9,9%
 - Kết quả khảo sát nguyên nhân của các em không thích môn Văn và có thái độ bình thường với môn Văn:
Lớp
TSHS
Bản thân không thích học
Môn văn khó học
Môn văn không đáp ứng được nhu cầu thực tế
Gv dạy không hay, không hấp dẫn.
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
7A1
12
03
25 %
02
16,7 %
07
58,3 %
00
00%
7A2
18
05
27,8 %
03
16,7 %
10
55,5 %
00
00%
Tc
30
08
26,7 %
05
16,7 %
17
56,6 %
00
00%
 - Tháng điểm thứ nhất trong HKI:
Lớp
TSHS
GIỎI
KHÁ
TRUNG BÌNH
YẾU
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
7A1
40
01
2,5%
7
17,5%
32
80%
00
00%
7A2
41
01
2,4%
8
19,5%
16
39%
16
39%
TC
81
02
2,5%
15
18,5%
48
59,3%
16
19,7%
 - Tháng điểm thứ hai trong HKI:
Lớp
TSHS
GIỎI
KHÁ
TRUNG BÌNH
YẾU
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
7A1
40
02
5%
21
52,5%
17
42,5%
00
00%
7A2
41
00
00%
14
34,1%
22
53,7%
5
12,2%
TC
81
02
2,5%
35
43,2%
39
48,1%
5
6,2%
 - Tháng điểm thứ ba trong HKI:
Lớp
TSHS
GIỎI
KHÁ
TRUNG BÌNH
YẾU
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
7A1
40
02
5%
29
72,5%
9
42,5%
00
00%
7A2
41
01
2,4%
15
36,6%
23
53,7%
2
4,9%
TC
81
03
3,7%
44
54,3%
32
39,5%
2
2,5%
 - Kết quả HKI:
Lớp
TSHS
GIỎI
KHÁ
TRUNG BÌNH
YẾU
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
7A1
40
03
7,5%
18
45%
19
47,5%
00
00%
7A2
41
02
4,9%
3
7,3%
27
65,9%
9
22%
TC
81
5
6,2%
21
25,9%
46
56,8%
9
11,1%
 - Tháng điểm thứ nhất trong HKII:
Lớp
TSHS
GIỎI
KHÁ
TRUNG BÌNH
YẾU
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
7A1
40
21
52,5%
14
35%
5
12,5%
00
00%
7A2
41
27
65,9%
8
19,5%
6
14,6%
00
00%
TC
81
48
59,3%
22
27,2%
11
13,5%
00
00%
 - Kết quả của HKII :
Lớp
TSHS
GIỎI
KHÁ
TRUNG BÌNH
YẾU
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
7A1
40
8
20%
30
75%
2
5%
00
00
7A2
41
1
2,4%
18
43,9%
22
53,7%
00
00
TC
81
9
11,1%
48
59,3%
24
29,6%
00
00%
 - Kết quả cả năm học: 
Lớp
TSHS
GIỎI
KHÁ
TRUNG BÌNH
YẾU
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
Sl
Tl
7A1
40
6
15%
28
70%
6
15%
00
00
7A2
41
00
00
19
46,3%
22
53,7%
00
00
TC
81
6
7,4%
47
58%
28
34,6%
00
00%
C. KẾT LUẬN
 I. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC.
- Làm quen với việc viết sáng kiến kinh nghiệm, thực hiện đề tài, bản thân đã ý thức được trách nhiệm của người giáo viên dạy môn Ngữ Văn.
- Giúp nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực giảng dạy của bản thân, phát hiện ra những vấn đề mới cần giải quyết như tạo thêm niềm tin trong công tác giảng dạy.
- Góp phần tạo nên thói quen đối với đồng nghiệp, phải chú trọng việc gây được hứng thú, tình cảm của học sinh đối với các môn học nói chung và môn Văn nói riêng.
- Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của đơn vị.
- Tích lũy thêm một số kinh nghiệm trong công tác.
- Chia sẽ, tiếp nhận được một số thông tin hữu ích từ học sinh, đồng nghiệp, lãnh đạo, giúp việc thực hiện nhiệm vụ ngày càng tốt hơn.
 II. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG.
Đề tài được thực hiện với học sinh mà hàng ngày bản thân trực tiếp giảng dạy nên thuận lợi trong việc áp dụng, điều chỉnh kịp thời nên đạt kết quả khá tốt.
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm của bản thân là tập hợp những công việc, giải pháp gần gũi dễ thực hiện và bất kì một giáo viên nào cũng có thể thực hiện nên khả năng áp dụng và nhân rộng là rất khả thi.
 III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM. HƯỚNG PHÁT TRIỂN
 Qua việc thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm, bản thân tự rút ra những bài học kinh nghiệm như sau:
 - Tranh thủ được sự đồng tình và giúp đỡ của lãnh đạo Nhà trường, sự quan tâm hỗ trợ của CMHS.
 	 - Tạo được sự đồng thuận của tổ chuyên môn và các bạn đồng nghiệp nhất là giáo viên dạy cùng bộ môn.
 	 - Kiên trì, nhẫn nại, đồng cảm với tâm tư, tình cảm HS, thông cảm, chia sẽ với những yếu kém, sai sót của HS.
 	 - Phải thật sự “thân thiện” với HS, tạo mối quan hệ gần gũi giữa thầy và trò, làm cho HS vừa cảm phục vừa yêu mến thầy cô.
 	- Sự nhiệt tình, tâm huyết lòng yêu nghề của giáo viên. Đặc biệt là ý thức trách nhiệm đối với HS, hết lòng với HS.
 	 - Phải không ngừng học tập qua sách vở, tài liệu, đồng nghiệp để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và không bao giờ bằng lòng với cái đã có mà phải luôn tìm tòi, suy nghĩ, sáng tạo để đạt kết quả tốt nhất trong công việc.
 Đề tài sáng kiến kinh nghiệm có thể tiếp tục phát triển trong thời gian sắp tới:
	- Qua kết quả ban đầu, tôi tiếp tục áp dụng vào các năm học tiếp theo và Tổ chỉ đạo giáo viên trong tổ vận dụng áp dụng vào công tác giảng dạy.
	- Chia sẽ một số kinh nghiệm cách làm với giáo viên các tổ chuyên môn khác.
IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ:
Lãnh đạo nhà trường trang bị, bổ sung thêm sách, tài liệu tham khảo môn Ngữ Văn cho thư viện Nhà trường, đồ dùng dạy học chô môn Văn.
Khen thưởng các sáng kiến kinh nghiệm có hiệu quả.
Cải tạo đầu tư cơ sở vật chất, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho công tác dạy và học: phòng học, bàn ghế, các phương tiện kĩ thuật.
Kính thưa các cấp lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp!
 	Các giải pháp, các công việc tôi đã làm và trình bày như trên chưa phải là những giải pháp hay, toàn diện và cũng không phải là duy nhất, theo tôi đó là những việc mà bản thân mỗi giáo viên tâm huyết đều phải làm và nó cũng không phải là mới mẻ và độc đáo. Nhưng cái khó ở đây và điều mà bản thân tôi tâm đắc là cái tâm, lòng tự trọng của một người thầy trước thực trạng của Hs không yêu thích dẫn đến học yếu kém môn mình dạy, phụ trách. Phải làm việc gì đó, cách gì đó để giúp mình, giúp Hs!
 Tiếp theo là đầu tư thời gian, công sức cho việc thực hiện các giải pháp. Muốn đạt kết quả thì phải bỏ công sức, thời gian và phải kiên trì và kết quả đạt được là niềm khích lệ để chúng ta phấn đấu nhiều hơn.
 Qua thời gian hơn một học kì thực hiện các giải pháp, cái được, cái kết quả lớn nhất mà bản thân tôi có được là tình yêu của Hs đối với tôi, tình cảm của các em đối với bộ môn Ngữ văn và phân môn Văn nói riêng, các em đã yêu thích và học ngày một tiến bộ hơn.
 Cuối cùng, bản thân mong muốn quý đồng nghiệp ủng hộ và chia sẽ. Tôi mong rằng, mình sẽ nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp để công việc giảng dạy của mình ngày được tốt hơn.
	Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Bình Thạnh , ngày 25 tháng 02 năm 2011 
Xét duyệt của Tổ chuyên môn	 GIÁO VIÊN THỰC HIỆN
	 Trần Thị Ngọc Hân
Ý kiến của HĐKH trường :
Ý kiến nhận xét của HĐKH cấp trên.
	TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Giáo dục 2005
2. Tài liệu Hội thảo nâng cao chất lượng giáo dục 2010, 2011
3. Sách giáo khoa Ngữ Văn 7.
4. Tài liệu tham khảo một số giải pháp tích cực trong dạy học 2011.
MỤC LỤC
PHẦN
Số trang
LỜI MỞ ĐẦU
1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
2
 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
2
 II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2
 III. PHẠM VI, GIỚI HẠN ĐỀ TÀI SKKN
3
 IV. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN
3
B. NỘI DUNG
3
 I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
3
 II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
4
 III. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG MÂU THUẪN
4
 IV. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
6
 V. HIỆU QUẢ ỨNG DỤNG
9
C. KẾT LUẬN
12
 I. Ý NGHĨA ĐỀ TÀI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
12
 II. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
12
 III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM, HƯỚNG PHÁT TRIỂN
12
 IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
12
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
14
 MỤC LỤC
14

Tài liệu đính kèm:

  • docviec tao hung thu cho cac em trong gio hoc Ngu Van.doc