Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng thực hành viết nghị luận văn học qua hệ thống bài tập

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng thực hành viết nghị luận văn học qua hệ thống bài tập

A ĐẶTVẤN ĐỀ

I LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1.CƠ SỞ LÍ LUẬN.

Trong quá trình giáo dục và đào tạo nên những con người mới phát triển toàn diện về đức và tài chúng ta không thể không nhắc đến việc giảng dạy môn Ngữ Văn trong nhà trường. Đây là một môn học vừa mang tính nghệ thuật vừa mang tính khoa học. Bởi môn Ngữ Văn là sản phẩm của sự rung động của cảm xúc tâm hồn, vừa là sản phẩm của trí tuệ. Nó chính là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực tác động sâu sắc và mạnh mẽ tới tư tưởng, tình cảm cảm xúc của con người.

 Một vấn đề đặt ra từ nhiều năm nay trong hệ thống nhà trường phổ thông đó là: Dạy học Văn như thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục? Thực trạng giáo dục trong nhiều năm qua nhiều khi đã xa rời bản chất: nặng về truyền thụ kiến thức đơn thuần, thầy cô giáo luôn áp đặt với học sinh nhiều quá mà ít hoặc không dạy cho học sinh biết học – một quá trình kiến tạo của tư duy. Từ đó người giáo viên có thể phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Điều này đòi hỏi người giáo viên ngoài chức năng truyền đạt kiến thức còn phải biết tổ chức, khơi gợi những tình huống để học sinh mong muốn tìm hiểu.

 

doc 40 trang Người đăng haiha30 Lượt xem 577Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng thực hành viết nghị luận văn học qua hệ thống bài tập", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A Đặtvấn đề
I Lí do chọn đề tài 
1.Cơ sở lí luận.
Trong quá trình giáo dục và đào tạo nên những con người mới phát triển toàn diện về đức và tài chúng ta không thể không nhắc đến việc giảng dạy môn Ngữ Văn trong nhà trường. Đây là một môn học vừa mang tính nghệ thuật vừa mang tính khoa học. Bởi môn Ngữ Văn là sản phẩm của sự rung động của cảm xúc tâm hồn, vừa là sản phẩm của trí tuệ. Nó chính là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực tác động sâu sắc và mạnh mẽ tới tư tưởng, tình cảm cảm xúc của con người.
 Một vấn đề đặt ra từ nhiều năm nay trong hệ thống nhà trường phổ thông đó là: Dạy học Văn như thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục? Thực trạng giáo dục trong nhiều năm qua nhiều khi đã xa rời bản chất: nặng về truyền thụ kiến thức đơn thuần, thầy cô giáo luôn áp đặt với học sinh nhiều quá mà ít hoặc không dạy cho học sinh biết học – một quá trình kiến tạo của tư duy. Từ đó người giáo viên có thể phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Điều này đòi hỏi người giáo viên ngoài chức năng truyền đạt kiến thức còn phải biết tổ chức, khơi gợi những tình huống để học sinh mong muốn tìm hiểu. 
Và trong các phân môn ở THCS thì môn Ngữ Văn có một vị trí đặc biệt trong quá trình học tập và thi cử. Nhưng lại là môn học ít gây được hứng khởi nhất và trở thành môn học ít người quan tâm nhất. Chúng ta biết rằng dạy Ngữ Văn nói chung là khó, dạy học sinh yêu thích học Ngữ văn lại càng khó hơn. Do đó người giáo viên phải thấy được mối quan hệ giữa truyền thụ tri thức với rèn luyện kĩ năng thực hành. Hay nói cách khác nguời giáo viên cần đặc biệt coi trọng chủ thể trò, giữ vững vai trò người hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động tư duy và khả năng thực hành đi đúng hướng nhằm tiến tới viết hoặc nói được một văn bản quy định trong chương trình Vậy dạy phân môn Ngữ Văn 
như thế nào? Câu hỏi này không chỉ là niềm trăn trở của riêng cá nhân mà có lẽ cũng là mối lo chung của những người có tâm huyết với nghề dạy Văn. 
ở đây tôi chỉ đề cập đến một vấn đề cụ thể trong dạy học Ngữ Văn ở trường trung học cơ sở: “ Rèn kĩ năng thực hành viết nghị luận văn học qua hệ thống bài tập”. Đây là kiểu bài nghị luận về một tác phẩm văn học mà người viết phải biết vận dụng các thao tác phân tích để chia nhỏ tác phẩm thành nhiều bộ phận quan trọng có quan hệ hữu cơ với nhau, soi rọi tác phẩm bằng ý chí và kinh nghiệm nghệ thuật nhằm phát hiện sự thống nhất giữa nội dung và hình thức để từ đó bình giá một cách xác đáng. Bởi vậy, chúng ta nên hiểu rằng việc giáo viên truyền thụ tri thức nghị luận văn học chỉ là điều kiện cần còn việc giáo viên rèn luyện cho học sinh một số kĩ năng làm bài theo các bước của bài văn mới là điều kiện đủ, là cái đích mà thầy trò phải vươn tới. 
2.Cơ sở thực tiễn 
 Trong những năm gần đây ở các trường trung học cơ sở, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học nói chung, đổi mới dạy học môn Ngữ Văn nói riêng đã và đang là vấn đề thời sự nóng hổi không chỉ được ngành giáo dục đào tạo mà được cả xã hội quan tâm. Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, tôi không khỏi băn khoăn về chất lượng viết văn nghị luận của học sinh còn nhiều hạn chế mắc những lỗi sai rất cơ bản khi viết hoặc “trông cậy” vào những bài văn mẫu. 
Trong khi đó vấn đề phương pháp dạy học cũng mới chỉ đến với giáo viên chủ yếu qua những tài liệu nặng về lí thuyết hơn là thực hành. Mặc dù với giáo viên đứng lớp , những hiểu biết về lí luận dạy học, về lí thuyết tiếp nhận vẫn là cần thiết. Song điều quan trọng nhất lại là những thiết kế bài dạy, với những thao tác biện pháp cụ thể, những phác hoạ về quy trình đổi mới dạy học khả thi để giáo viên có thể tổ chức hướng dẫn học sinh tích cực chủ động học tập 
trong từng giờ học còn hạn chế .Vì thế giờ dạy Ngữ Văn không gây được hứng thú cho học sinh.
 Xuất phát từ thực tiễn, nhận thức được tầm quan trọng và nguy cơ của việc dạy học Ngữ Văn còn nhiều nhược điểm. Bản thân tôi thấy rằng để dạy được các em biết cách làm một bài văn nghị luận văn học khó nhưng thực sự cần thiết . Làm thế nào để các em có thể nắm bắt được phương pháp làm bài, để từ chỗ các em biết làm, làm đúng đến làm “hay” một bài nghị luận văn học của một quá trình gắn kết tích hợp giữa ba phân môn của môn Ngữ văn: Văn – Tiếng việt- Tập làm văn. Đặc biệt quá trình ấy phải được thực hiện bền bỉ thường xuyên.Và để làm được, triển khai được các phương pháp ấy dĩ nhiên là ta phải có cái gốc: Kiến thức văn học. Vậy phải làm gì? Làm như thế nào? Và làm như thế nào để đưa ra một phương pháp hay nhất cho bài toán khó giải này? Phải có hệ thống bài tập gì để đáp ứng trong rèn luyện các kĩ năng làm bài? Sử dụng hệ thống bài tập trong sách giáo khoa như thể nào?Đây chính là lí do khiến tôi chọn đề tài : “ Rèn kĩ năng thực hành viết nghị luận văn học qua hệ thống bài tập” để nghiên cứu. Mong muốn cụ thể hoá hoạt động của học sinh, giúp các em có kĩ năng làm bài nghị luận văn học được tốt hơn. Có thể phát huy trí lực, chủ động nắm bắt kiến thức và từ đó đạt kết quả cao hơn ở các lớp sau. 
II.Mục đích phương pháp của đề tài nghiên cứu
1.Mục đích, định hướng nghiên cứu cần đạt tới.
Trên lĩnh vực giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề đã được đề cập và bàn luận rất sôi nổi từ nhiều năm nay. Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học trong trường phổ thông hiện nay là tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. Với ý nghĩa người học tự giác, chủ động tìm tòi, phát hiện, giải quyết nhiệm vụ nhận thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên và có ý thức vận dụng sáng tạo những kiến thức, kĩ năng thu nhận được. Bởi học sinh được coi là những đối tượng vốn có sẵn những tiềm năng mà người giáo viên có nhiệm vụ đánh thức và tạo điều kiện để những tiềm năng đó được phát triển tối đa, đặc biệt là tiềm năng sáng tạo... Để từ đó học sinh có thể vận dụng tốt kiến thức kĩ năng làm bài nghị luận văn học dưới sự hướng dẫn của giáo viên nhằm đạt những mục tiêu cụ thể trong giờ học. 
2.Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Rèn kĩ năng thực hành viết văn nghị luận văn học”, tôi thấy rằng người giáo viên cần phải sử dụng đồng loạt các phương pháp sau:
-Phương pháp đọc tư liệu, lí luận dạy học.
-Phương pháp tổng hợp lí luận, xác định mục đích của hoạt động.
-Phương pháp khảo sát, thống kê thực trạng dạy và học. 
-Thể nghiệm thực tế giảng dạy của bản thân.
-Phương pháp so sánh đối chiếu so sánh kết quả.
-Học hỏi đồng nghiệp: trao đổi, đề nghị bạn dự giờ. 
B.Nội dung thực hiện
I.Những vấn đề chung
Trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở thì việc học văn nghị luận đối với học sinh là một cuộc chuyển đổi tư duy: từ tư duy nghệ thuật sang tư duy lí luận. Chính vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn là đổi mới ở cả hai mặt dạy và học mà thực chất là đổi mới ở thầy là chính. Xuất phát từ tri thức, chi phối hệ thống bài tập thực hành cho mỗi bài dạy. ở đây tôi chỉ nêu một số kĩ năng cơ bản để từ đó có thể nâng cao chất lượng soạn giảng trong việc dạy: “ Rèn kĩ năng thực hành viết nghị luận văn học qua hệ thống bài tập” 
Chúng ta nên hiểu rằng nghị luận tác phẩm văn học không dừng lại ở việc chia nhỏ tác phẩm để khảo sát mối liên hệ giữa yếu tố tạo thành cấu trúc nghệ thuật của nó mà phải nêu ra và bình luận giá trị nội dung và ý nghĩa thẩm mĩ chứa đựng trong mỗi khía cạnh và yếu tố tạo nên chỉnh thể của tác phẩm. Những cách thức để nghị luận văn học là: 
Nghị luận một tác phẩm văn học theo lối khai thác phương thức trình bày nghệ thuật tiềm tàng trong văn bản, phân tích và xác định sự nhất quán của kết cấu tác phẩm. Lựa chọn những yếu tố nội dung và nghệ thuật độc đáo để bình luận và cắt nghĩa sự thống nhất giữa hình thức nghệ thuật với chủ thể và tư tưởng của tác phẩm văn học. Từ đó người viết phải nắm chắc những lí luận văn học, biết tiếp cận và phát hiện những chi tiết nghệ thuật một cách tinh tường để tạo ra cái mới, cái riêng của bài văn.
Nghị luận văn học trong quan hệ hình thành tác phẩm rồi sau đó đánh giá những thành công và hạn chế của tác phẩm đó. Người viết có thể phân tích dấu ấn thời đại có liên quan đến tác phẩm. Phát hiện được dấu ấn cá tính nghệ thuật của tác giả.
 Nghị luận văn học phải dựa vào ngôn ngữ để bình giảng ý nghĩa cũng như cái hay cái đẹp của đoạn thơ, đoạn văn đó. Chú ý tới câu chữ, hình ảnh, nhịp điệu, cách gieo vần, giọng thơ thích hợp với nội dung bài thơ, bài văn, cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật. Có thể so sánh tác phẩm với những tác phẩm khác cùng chủ đề, thời đại hay khuynh hướng để nhấn mạnh giá trị riêng của nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật cũng như đóng góp của tác phẩm đó vào sự phát triển của văn học dân tộc. Khi bình phải trân trọng, yêu mến, cảm thông với tác giả “ Lấy hồn ta để hiểu hồn người” .
Với dạng bài nghị luận văn học ta có sơ đồ sau: 
Chủ đề
 Tác giả,
tác phẩm
Hoàn cảnh xã hội
 Mở bài 
Tác phẩm văn học
Nghệ thuật
Nội dung
Thân bài 
Cảm xúc của người đọc
Hạn chế
(Nếu có)
Đánh giá:
 -Ngày nay: 
 -Tương lai: .
Kết bài 
*Một số dạng bài về tác phẩm truyện:
-Phân tích tác phẩm truyện:
+Phân tích giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật toàn bộ tác phẩm.
+Phân tích một đoạn trích trong tác phẩm.
+Phân tích nghệ thạt xây dựng nhân vật điển hình trong tác phẩm. 
+Phân tích một nét đặc sắc của tác phẩm.
-Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm truyện
+Cảm nghĩ về nội dung, chủ đề sâu sắc của truyện
+Cảm nghĩ về nhân vật trong tác phẩm truyện.
-Bình luận, bình giảng về tác phẩm truyện.
Tuy nhiên việc tách bạch danh giới giữa các hình thức nghị luận trên chỉ ở mức tương đối. Trong quá trình nghị luận người viết có thể đan xen các hình thức nói trên. Tuỳ vào yêu cầu cụ thể của đề bài để xác định mức độ, phạm vi hình thức nghị luận chính cũng như sự kết hợp các hình thức nghị luận khác.
**Chú ý:
-Nhận xét, đánh giá tác phẩm truyện phải xuất phát từ giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm được người viết phát hiện và khái quát trong quá trình tiếp cận tác phẩm đó :
+Tính cách nhân vật;Số phận nhân vật.
+ý nghĩa cốt truyện.
+Các tình huống nghệ thuật; kết cấu tác phẩm.
-Tránh khuynh hướng nghị luận lệch về nội dung, coi thường hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
-Những nhận xét, đánh giá được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau:
+Từ những rung động cảm xúc của mình khi tiếp cận và khám phá tác phẩm.
+ Từ những nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học về tác phẩm đó.
+So sánh với các tác phẩm về khía cạnh ta phân tích. Khi đánh giá , ta cần xem xét mối tương quan giữa khía cạnh ta nghị luận với các khía cạnh khác của tác phẩm để xem xét nó góp phần như thế nào trong việc thể hiện chủ đề.
- Để đánh giá đúng, ta có thể so sánh với các tác phẩm khác có cùng đề tài của các tác giả khác. Nếu chỉ dựa vào một tác phẩm ta dễ bị nhầm lẫn. 
*Một số dạng bài nghị luận một đoạn thơ, bài thơ thường gặp:
-Nghi luậ ... được tin làng Dầu của mình theo giặc ông không những không bênh vực cho làng của mình mà còn ra sức phản đối hành động đó. Ông quyết tâm đi theo con đường cách mạng của đất nước, của cụ Hồ.”
Em hãy chỉ ra bạn đã mắc lỗi như thế nào? Nguyên nhân nào khiến bạn mắc lỗi? Em hãy giúp bạn khắc phục?)
*Yêu cầu : Chỉ ra đúng lỗi mà bạn mắc phải. Và đưa ra hướng giải quyết cụ thể : 
-Do vốn từ ngữ còn nghèo nàn nên chưa có sự thay thế từ cho phù hợp.
-Do viết câu lủng củng không đúng ngữ pháp ( câu sai).
-Do các câu, các ý trong đoạn chưa mạch lạc, chưa có sự liên kết về mặt nội dung và hình thức.
*Gợi ý:
- Bài viết của bạn không chỉ sai lỗi chính tả ( Câu truyện) mà còn mắc lỗi diến đạt tối ý dùng từ cảnh tượng là chưa phù hợp ( đưa ông Hai vào một cảnh tượng “ tiến thoái lưỡng lan”).
 -Trong khi nghị luận bạn chưa có sự kết hợp lấy dẫn chứng minh hoạ cho đánh giá của mình dẫn đến bài viết sơ sài chưa toát lên được sự đau khổ của ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc .( Chẳng hạn có thể viết: Với cốt truyện hấp dẫn và nghệ thuật xây dựng tình huống độc đáo. Nhà văn Kim Lân đã đặt ông Hai trong một hoàn cảnh đặc biệt. Đó là khi tin làng chợ Dầu theo giặc- tuy mới chỉ phong phanh từ miệng mấy người dân tản cư cũng đủ khiến ông Hai bàng hoàng, đau xót. Hàng loạt diễn biến tâm trạng giằng xé tâm can ông: “ Da mặt ông tê rân rân”, “cổ ông lão nghẹ ắng hẳn lại” chứng tỏ rằng ông đang đi tới cực điểm của sự đau khổ và mất niềm tin.) 
-Cần chú ý trong tác phẩm, Kim Lân viết làng chợ Dầu chứ không phải làng Dầu.
2.5 Bài tập sản sinh
Đây là dạng bài tập nâng cao, đòi hỏi học sinh từ những kĩ năng về lý thuyết và thực hành để đi tới viết được thành thạo một bài văn nghị luận.
a.Bài tập viết đoạn
Ví dụ1: Em hãy viết mở bài, kết bài cho một bài thơ , tác phẩm truyện hoặc một đoạn trích mà em yêu thích nhất?
*Yêu cầu : Viết đúng yêu cầu về kĩ năng viết mở bài , kết bài của đề bài không nhất thiết phải máy móc dập khuôn theo trình tự các yếu tố.
Ví dụ 2: Cho đề sau:Chứng minh rằng qua sáu câu thơ mở đầu bài “ Khi con tu hú” nhà thơ Tố Hữu đã dựng lên được một bức tranh thiên nhiên hết sức sống động, tràn ngập âm thanh rực rỡ sắc màu. 
-Em hãy viết mở bài gián tiếp theo sơ đồ : Gợi mở vào đề+ 51234
-Em hãy viết hai đoạn đầu thuộc phần thân bài theo kiểu phân tích nghệ thuật kết hợp bình nội dung hoặc phân tích nghệ thuật kết hợp phân tích nội dung.
-Em hãy viết kết bài theo sơ đồ: 321/45
*Yêu cầu:
 -Viết đúng yêu cầu về kĩ năng viết mở bài , kết bài của đề bài nhất thiết phải theo trình tự các yếu tố mà đề bài đã ra.
-Phần thân bài phải có sự chuyển đoạn để liên kết hai đoạn văn nghị luận. 
b. Bài tập viết thành văn bản hoàn chỉnh.
Ví dụ: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương trong “ Chuyện người con gái Nam Xương”của Nguyễn Dữ.
*Yêu cầu: 
- Viết về nghị luận văn học: Giải quyết một vấn đề trong tác phẩm truyện.
-Qua nhân vật Vũ Nương, làm rõ những suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ.
-Bài viết có bố cục rõ ràng đủ ba phần: Mở bài-thân bài- kết bài. Phải xây dựng hệ thống luận điểm, luận cứ để làm rõ vấn đề: Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.( Chịu nhiều bất công, oan trái, thân phận của họ vô cùng đau khổ; Cảm thông sâu sắc với người phụ nữ trong xã hội phong kiến; Lên án xã hội phong kiến đã chà đạp lên thân phận người phụ nữ.)
-Các đoạn trong văn bản phải có sự liên kết chặt chẽ về hình thức và nội dung.
-Bài viết phải có sự sáng tạo không sao chép. Bài viết có thể chon các cách sau để nghị luận:
+Cách 1: Phân tích nhân vật Vũ Nương, sau đó nêu suy nghĩ về người phụ nữ trong xã hội cũ.
+Cách 2: Nêu suy nghĩ về than phận người phụ nữ trong xã hội cũ, sau đó chứng minh qua nhân vật Vũ Nương.
+Cách 3: Phân tích nhân vật Vũ Nương xen lẫn với những nhận định đánh giá về thân phận người phụ nữ.
- Biết vận dụng thành thạo các kĩ năng khi viết bài sao cho hợp lí .
C.KếT quả thực hiện
Tiếp thu những phương pháp tích cực truyền thống, vận dụng những đổi mới của việc thay sách giáo khoa, sách biên soạn (có chỉnh lí) cùng với những tìm tòi sáng tạo qua thực tiễn giảng dạy của bản thân trong việc “ Rèn kĩ năng thực hành viết nghị luận văn học qua hệ thống bài tập”, từ những bước ban đầu tôi đã đạt được những kết quả khả thi sau:
-Các em đã biết cách làm một bài văn nghị luận văn học với những đề bài cụ thể. Đặc biệt các em không còn “ sợ” như trước khi đến giờ luyện viết nghị luận văn học hay giờ kiểm tra về nghị luận văn học.
-Các em sôi nổi, nhiệt tình xây dựng bài trong giờ Ngữ Văn. Có hứng thú hoạt động và tiếp nhận kiến thức. 
-Bài làm của các em đã có sự sáng tạo của bản thân, không còn lệ thuộc vào bài văn mẫu hoặc viết dập khuôn máy móc khi viết phần mở bài- thân bài- kết bài.
-Các em có ý thức vận dụng sáng tạo những kiến thức, kĩ năng đã học thông qua hoạt động nhóm khi viết đoạn hay viết văn bản nghị luận văn học
-Qua sự hướng dẫn của giáo viên, các em còn có thể tự nhận xét bài của nhau sau đó nhờ giáo viên đánh giá.
-Hầu hết các em đã có sự tiến bộ rõ rệt . Nếu như ở bài viết số 6 ( bài về nhà) của lớp 9- các em còn lệ thuộc vào sách tham khảo thì ở bài viết số 7( Tiết 134+135) đã có những tiến bộ rõ rệt đáng kể như sau:
Bài viết
Số
Phương pháp
Kết quả
bài viết
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
6
Cũ
3%
18%
65%
14%
0%
7
Mới
17%
52%
31%
0%
0%
D BàI học kinh nghiệm
Từ những kết quả khả quan trên, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm trong dạy học Ngữ Văn, đặc biệt với dạng bài nghị luận văn học nhằm tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. Tạo điều kiện cho học sinh tự giác, chủ động tìm tòi phát hiện giải quyết nhiệm vụ nhận thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên và có ý thức vận dụng sáng tạo kĩ năng đã học qua hệ thống bài tập từ nhận biết đến bài tập áp dụng sau đó là bài tập sáng tạo Do vậy, để thực sự đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn chính bản thân mỗi giáo viên cũng phải thực sự chủ động sáng tạo để có thể giúp học sinh nắm được bài sâu sắc, việc tạo tâm thế cho học sinh biết suy nghĩ tìm tòi, phát hiện ra những đặc sắc của tác phẩm văn học là rất quan trọng. Muốn làm dược như vậy, người giáo viên phải chủ động tư duy, chủ động đưa đổi mới dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh vào bài giảng. Vì thế nên tôi đã mạnh dạn đưa phương pháp đổi mới này vào ứng dụng khi nghị luận văn học. Do đó đòi hỏi: 
- Giáo viên phải hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức theo lối đa chiều thông qua sự liên tưởng ngược chiều hoặc song song. Đây chính là khâu “giải mã” trong bài giảng nghị luận văn học.
-Giáo viên chủ động thiết kế giờ học căn cứ vào những mục tiêu cụ thể của giờ học ( Sao cho giờ học Nghị luận một tác phẩm văn học không bị gò bó trong quá trình cứng nhắc với những bước đi bắt buộc). Điều cơ bản là mỗi giờ học phải kích thích được hứng thú, tính tích cực của học sinh và có sự cộng hưởng của giáo viên và học sinh trong việc chiếm lĩnh và vận dụng tri thức. 
-Phải thực sự coi trọng tính chất thực hành. Cần từ bỏ kiểu thuyết giảng nặng nề thay bằng một hệ thống bài tập từ đơn giản đến phức tạp ( Chẳng hạn từ quan sát đến bắt chước và sau cùng là sáng tạo. Trong bài tập sáng tạo cũng đi từ sáng tạo bộ phận đến sáng tạo toàn thể. Cần tăng cường loại bài tập thực hành mà học sinh đã chuẩn bị sơ bộ (ở nhà hoặc trên lớp) để trình bày trước lớp.
-Giáo viên tạo điều kiện cho học sinh suy nghĩ tự rèn luyện các kĩ năng thông qua các bước và hệ thống bài tập thực hành cụ thể, đặc biệt lưu ý đến kĩ năng sử dụng ngôn ngữ sản sinh văn bản của học sinh trong giờ học Ngữ văn.
-Giáo viên linh hoạt, sáng tạo trong tìm tòi, thiết kế và sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học. Đặc biệt là tiếp cận, khai thác và vân dụng thành thạo các thiết bị dạy học hiện đại ( Máy chiếu qua đầu overhead, máy vi tính, giáo án điện tử) để có thể hệ thống hoá kiến thức, mô hình hoá các kĩ năng, phóng to một đoạn văn, một đề bài tậpsẽ tiết kiệm được thời gian và khắc sâu kiến thức kĩ năng.
-Tổ chức các hoạt động của học sinh thật linh hoạt, phân nhóm cụ thể đối với những dạng bài tập sáng tạo để các em có thể kết hợp và phát huy tư duy có hiệu quả. 
-Giáo viên phải có quyết tâm đổi mới phương pháp dạy học, đới nội dung bài giảng, có phương pháp sư phạm tốt mới có thể ngày càng nâng cao hiệu quả giờ dạy và trên cơ sở đó mới tạo cho học sinh say mê hứng thú học với môn học.
-Giáo viên phải có giọng nói truyền cảm, lập luận chắc chắn lôgic.
-Giáo viên biết lắng nghe, biết xử lí và đánh giá kịp thời kết quả học tập nhằm kích thích hứng thú và sự tích cực học tập của học sinh.
E. kết luận
Trong thực tế ai cũng hiểu rằng dạy Ngữ Văn, đặc biệt là văn nghị luận phải có phương pháp cụ thể. Nhưng nếu thiếu đi trong đó vốn kiến thức hiểu biết của thầy và trò, đặc biệt là người thầy thì quả là lỗ hổng kiến thức lớn. Vì vậy, người giáo viên phải là người biết trau dồi kiến thức, tu dưỡng bản thân. Không có những kiến thức cơ bản ấy thì dù cho rằng có nắm vững phương pháp đến đâu cũng không thể thành công trong việc truyền thụ kiến thức đối với học sinh.
Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc áp dụng đổi mới phương pháp dạy học trong trường phổ thông hiện nay là tích cực hoạt động học tập của học sinh. Mặc dù còn ít nhiều hạn chế song bước đầu hiệu quả đạt được đã làm tôi phần nào yên tâm hơn trong công tác đổi mới nền giáo dục nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ Văn nói riêng . Tôi thấy rằng dù khó dạy và khó học nhưng với sự nhiệt tình, yêu thích thực sự và có một phương pháp dạy phù hợp thì vẫn là sự hấp dẫn đối với học sinhNhững ý kiến trên chỉ là của riêng cá nhân tôi. Bản thân tôi sẽ cố gắng, tìm tòi hơn nữa và học hỏi đồng nghiệp nhiều hơn nữa để giúp cho tay nghề mình thêm vững vàng. Những vấn đề tôi nêu trên hẳn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Vì thế, tôi mong muốn rất nhiều sẽ nhận được sự đóng góp bổ sung của các đồng chí và bạn bè đồng nghiệp để phương pháp đó ngày càng thêm hoàn thiện.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Kim Lũ. ngày 29 tháng 3 năm 2008
Người viết
Phan Thị Hoa
Xếp loại của hội đồng xét duyệt: 
Mục lục
A.Đặt vấn đề Trang
I.Lý do chọn đề tài: 1
1Cơ sở lí luận 1
2.Cơ sở thực tiễn 2
II.Mục đích phương pháp của đề tài nghiên cứu 3
1.Mục đích, định hướng nghiên cứu cần đạt tới. 3
2.Phương pháp nghiên cứu. 4
B.Nội dung thực hiện. 5
I.Những vấn đề chung. 5
II.Cách thực hiện. 8
1.Kĩ năng viết văn nghị luận văn học. 9
1.1Phần mở bài 9
1.2Phần thân bài 13
1.3Phần kết bài 21 
2.Hệ thống bài tập rèn kĩ năng nghị luận văn học. 23 
2.1Dạng bài tập trắc nghiệm 23
2.2Dạng bài tập cải biến. 25
2.3 Dạng bài tập tình huống 29
2.4 Dạng bài tập chữa lỗi. 30
2.5 Dạng bài tập sản sinh 32 
C.Kết quả thực hiện 34 
D.Bài học kinh nghiệm. 35 
E. Kết luận 37 

Tài liệu đính kèm:

  • docVan 8(15).doc