Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng sống cho học sinh qua tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng sống cho học sinh qua tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp

A. ĐẶT VẤN ĐỀ.

 Mỗi người giáo viên đều hướng tới một cái đích là mở ra cánh cửa tri thức cho học sinh thân yêu của mình.Nhưng bằng cách nào để dẫn tới cánh cửa ấy lại phụ thuộc vào kĩ năng và phương pháp sư phạm riêng của mỗi giáo viên.Với bộ môn ngữ văn có tầm quan trọng đặc biệt là bồi dưỡng cho học sinh một lối sống đẹp, tâm hồn trong sáng, nhân cách thanh cao- đó là tình yêu con người, yêu quê hương, đất nước, yêu cuộc sống.Và với phân môn tập làm văn nói riêng lại rèn cho các em kĩ năng biết chắt chiu những kinh nghiệm sống ấy “pha chế” nó thành sản phẩm cho riêng mình.Nhưng ai cũng nói rằng trong các thể loại văn thì văn nghị luận là khó nhất. Bản thân tôi cũng đồng ý với ý kiến đó.

 Trong mấy năm đổi mới cách biên soạn sách và phương pháp dạy học cho phù hợp với tình hình phát triển của xã hội thì với môn ngữ văn tích hợp là quan điểm cơ bản của ngành giáo dục nước ta. Trong chương trình SGK Ngữ văn THCS, các tác giả biên soạn đã thể hiện rất rõ quan điểm tích hợp này ở mọi hình thức: tích hợp ngang giữa các phân môn, tích hợp dọc, tích hợp đồng tâm Sự đổi mới này không chỉ giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức tổng hợp mà còn có kỹ năng tốt hơn trong quá trình học văn và làm văn.

 

doc 24 trang Người đăng haiha30 Lượt xem 508Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng sống cho học sinh qua tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Đặt vấn đề.
 Mỗi người giáo viên đều hướng tới một cái đích là mở ra cánh cửa tri thức cho học sinh thân yêu của mình.Nhưng bằng cách nào để dẫn tới cánh cửa ấy lại phụ thuộc vào kĩ năng và phương pháp sư phạm riêng của mỗi giáo viên.Với bộ môn ngữ văn có tầm quan trọng đặc biệt là bồi dưỡng cho học sinh một lối sống đẹp, tâm hồn trong sáng, nhân cách thanh cao- đó là tình yêu con người, yêu quê hương, đất nước, yêu cuộc sống.Và với phân môn tập làm văn nói riêng lại rèn cho các em kĩ năng biết chắt chiu những kinh nghiệm sống ấy “pha chế” nó thành sản phẩm cho riêng mình.Nhưng ai cũng nói rằng trong các thể loại văn thì văn nghị luận là khó nhất. Bản thân tôi cũng đồng ý với ý kiến đó. 
 Trong mấy năm đổi mới cách biên soạn sách và phương pháp dạy học cho phù hợp với tình hình phát triển của xã hội thì với môn ngữ văn tích hợp là quan điểm cơ bản của ngành giáo dục nước ta. Trong chương trình SGK Ngữ văn THCS, các tác giả biên soạn đã thể hiện rất rõ quan điểm tích hợp này ở mọi hình thức: tích hợp ngang giữa các phân môn, tích hợp dọc, tích hợp đồng tâm Sự đổi mới này không chỉ giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức tổng hợp mà còn có kỹ năng tốt hơn trong quá trình học văn và làm văn.
 Một trong những nhiệm vụ cơ bản của môn Ngữ văn ở trường phổ thông nói riêng và ở trường THCS nói chung là phải giúp học sinh hình thành bốn kỹ năng cơ bản là: Nghe, nói, đọc, viết; trong đó kỹ năng viết có một vai trò vô cùng quan trọng. Nhiệm vụ hình thành kỹ năng viết chính là ở phân môn Tập làm văn, chính vì vậy chỉ riêng ở phần tập làm văn ở lớp7, 8, 9 bên cạnh việc hướng dẫn các em viết những văn bản hành chính thông dụng cần đi sâu hơn vào ba kiểu văn bản Thuyết minh, Tự sự, Nghị luận theo chuẩn kiến thức kĩ năng, giúp các em biết sử dụng một số biện pháp nghệ thuật và yếu tố miêu tả trong văn bản thuyết minh, yếu tố miêu tả, phép phân tích và tổng hợp trong văn bản nghị luận. Về văn bản nghị luận, các em sẽ được tìm hiểu sâu hơn về hai hình thức thường gặp nhất là nghị luận xã hội, một hình thức trước đây chưa được chú ý đúng mức trong nhà trường và nghị luận văn học với hai dạng cụ thể là nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) và nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. Nhưng trong thực tế có thể khẳng định rằng thể loại văn nghị luận là một thể loại văn khá khó đối với học sinh THCS. Qua quá trình giảng dạy tôi nhận thấy rằng một bộ phận lớn học sinh chưa thực sự có kỹ năng xác định luận điểm, luận cứ; chưa xác định và phân biệt được các yêu cầu khác nhau của các hình thức văn nghị luận. Vì vậy trên đây là vấn đề mà bản thân tôi cần nghiên cứu để tự trang bị cho mình một phương pháp tốt nhất khi dạy mảng văn nghị luận.
 II.Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
 1.Thực trạng.
 - Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường THCS , tôi nhận thấy khi giảng dạy phân môn Tập làm văn và cụ thể là kiểu bài văn nghị luận đang tồn tại những vấn đề sau: 
 - Một bộ phận không nhỏ giáo viên vẫn quan niệm phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn nghị luận nói riêng là một kiểu bài khó. song khi giảng dạy chưa thật sự được chú trọng về thời lượng dành cho thực hành của phân môn này. Mỗi hình thức nghị luận đều có một tiết dành cho luyện nói, nhưng trên thực tế thì giờ luyện nói này chưa thực hiện đúng với mục đích của giờ luyện nói.
 - Không ít giáo viên ngữ văn khi giảng dạy chỉ chú ý đến nội dung bài học, cung cấp đầy đủ cho học sinh dung lượng kiến thức trong sách giáo khoa mà chưa chú trọng đến việc giúp các em hình thành kỹ năng nhận biết, phân biệt các hình thức nghị luận, để qua đó các em có thể xác định ngay được nội dung yêu cầu của từng hình thức nghị luận để áp dụng vào bài văn nghị luận của mình.
 - Thực tế thì hiện nay còn nhiều học sinh có thói quen thụ động, quen nghe, chép lại những gì giáo viên nói. Khi làm bài thì phụ thuộc hoàn toàn vào các tài liệu học tốt, bài văn mẫu có sẵn.Vì vậy những học sinh đó trở nên trây ỳ, lười suy nghĩ, không động não.
 2.Kết quả của thực trạng trên.
 Từ thực tế trên khiến học sinh không còn hứng thú với tiết học, không phân biệt, nhận diện được đặc trưng, phương pháp,cách làm một bài văn nghị luận.
 Qua bài khảo sát chất lượng ở lớp 8b mà tôi trực tiếp giảng dạy kết quả thu được như sau:
Sĩ số
Kết quả đạt được
Gỏi
%
Khá
%
TB
%
Yếu
%
Kém
%
32
0
0 %
5
15,6%
12
53,2%
10
15,6%
5
15,6%
 Từ kết quả trên, bằng kinh nghiệm giảng dạy thực tế của bản thân tôi đưa ra một vài 
Giải pháp nho nhỏ để nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy và học các hình thức văn nghị luận ở trường THCS. 
B.Giải quyết vấn đề
 I. Các giải pháp thực hiện.
 1.Nghị luận là gì?
 Nghị luận là bàn bạc, nhận định, đánh giá về một tình hình, một vấn đề nào đó .
 2. Phân loại:
 Có hai loại Nghị Luận:
 + Nghị luận chính tri, xã hội.
 + Nghị luận văn chương. 
 Ví dụ: Bàn luận về câu nói " Không có gì quý hơn độc lập tự do" là nghị luận chính trị. Nghị luận về thói đố kị, lòng khoan dung, lòng nhân ái, tệ tham nhũng... là nghị luận xã hội. Nghị luận tục ngữ là nghị luận xã hội, như :"Uống nước nhớ nguồn"; "Tốt danh hơn lành áo", " Có công mài sắt có ngày nên kim", v.v..
 3.Thế nào gọi là văn nghị luận?
 Nghị luận là kiểu bài, là phương pháp nghị luận sử dụng thao tác bàn bac, phân tích giúp người đọc, người nghe hiểu đúng, hiểu sâu, hiểu rộng một vấn đề, chỉ rõ vấn đề ấy là đúng hay là sai, tốt hay xấu, cũ hay mới...đồng thời giúp người nghe, người đọc có thái độ đúng, hành động đúng đối với vấn đề đang nghị luận.
 Chính vì vậy, một bài nghị luận phải đạt được ba mục tiêu cụ thể như sau:
 - Một là: Phân biệt rõ đúng, sai, tốt, xấu, cũ mới... của vấn đề.
 - Hai là: mở rộng, khơi sâu tầm nhận thức, sự hiểu biết về vấn đề đó.
 - Ba là: xác định rõ thái độ, tình cảm, hành động đúng đắn khi đối diện với vấn đề ấy.
 4. Các thao tác nghị luận.
 Một bài nghị luận phải nâng vấn đề có ý nghĩa khái quát, có giá trị lý luận và thực tiễn trên cơ sở một quan điểm, một lập trường nhất định.
 Để đạt được ba mục tiêu của bài nghị luận, người viết phải sử dụng thao tác nghị luận kết hợp với thao tác giải thích và thao tác chứng minh.
 Muốn phân biệt vấn đề đúng hay sai, tốt hay xấu, cũ hay mới, ta phải giải thích, phải trả lời thoả đáng các câu hỏi: Nghĩa là gì? như thế nào? tại sao? Vì sao?
 Muốn mở rộng, khơi sâu tầm nhận thức, sự hiểu biết về vấn đề đó ta phải bàn luận, so sánh, đối chiếu lý luận với thực tế, nghĩa là ta phải bình, phải luận kết hợp với chứng minh.
 Việc kết hợp thao tác, thao tác chứng minh với thao tác bình và luận trong một bài văn nghị luận mang tính tất yếu. Vì thế, một bài nghị luận nếu viết nông cạn chẳng khác gì một bài văn giải thích được thêm thắt một vài dẫn chứng.
 5.Ba bước của một bài văn nghị luận.
 Trong thân bài của bài nghị luận , cần lần lượt phát triển theo ba bước như sau:
 - Bước một: phải giải thích rõ vấn đề. Một từ ngữ khó, một khái niệm mới cần được giải thích rõ. Nghĩa đen, nghĩa bóng, ý nghĩa của vấn đề phải được giải thích cụ thể. Bước giải thích này được coi như soi sáng vấn đề là bước rất cần thiết.
 - Bước hai: phải bình để chỉ rõ đúng sai, tốt xấu, cũ mới, của vấn đề. Tại sao đúng(sai)? Đúng sai như thế nào? Phải có lý lẽ trên một quan điểm lập trường nhất định. Phần bình thể hiện rõ cái yêu, cái ghét, sự tiến bộ hay lạc hậu, hạn chế về mặt nhận thức, về tư tưởng, tình cảm của người bình luận. Phần bình cần sự sắc sảo.
 - Bước ba: phải luận, nghĩa là phải bàn bạc, bàn luận, so sánh, đối chiếu khơi sâu, mở rộng vấn đề; đặt vấn đề trong nhiều mối tương quan về gia đình, xã hội, lịch sử, về lý luận, về thực tiễn để bàn luận cho thoả đáng. Bước ba của một bài văn nghị luận chính là nơi để phân biệt mức độ, chất lượng của trình độ của bài văn, của người viết.
 *Chú ý: Ba bước của một bài nghị luận cần rạch ròi trong nhận thức. Những bài nghị luận một câu tục ngữ, một câu ca dao, một ý kiến ngắn... thường thường ở thân bài nên tiến hành theo trình tự ba bước.
Đối với những vấn đề bình luận về một vấn đề được trích dẫn trong một câu dài có nhiều vế, ta phải:
 - Có lúc gộp bước 2 và 3, kết hợp nghị luận trong từng vế.
 - Có lúc phải gộp cả ba bước trong từng vế cụ thể. 
 - Đọc các bài văn minh hoạ sẽ thấy rõ sự sáng tạo trong văn nghị luận phản ánh trí tuệ và độ thông minh, nhạy cảm của người học sinh.
 6.Dàn ý một bài văn nghị luận.
 a,Mở bài:
 Cần có hai nhân tố sau, gắn liền với nhau, hô ứng nhau: dẫn, nhập.
 - Dẫn: là dẫn dắt hướng về luận đề. Cần đúng hướng chưa vội nêu bật ý nghĩa của vấn đề. Có nhiều cách dẫn dắt như nêu xuất xứ của vấn đề, hoặc nêu hoàn cảnh( xã hội, lịch sử, nghệ thuật... ) của vấn đề xuất hiện, nảy sinh. Cũng có thể nêu mục đích của vấn đề phải nghị luận. Cũng có trường hợp sử dụng cách so sánh, nghi vấn hoặc tương phản, ...nói chung là cần thao tác linh hoạt.
 - Nhập: là nhập đề - tức là nêu vấn đề phải bình luận. Nếu danh ngôn, câu văn, câu thơ, ca dao, tục ngữ... được chỉ định trong đề bài, thì ta phải giới thiệu trích dẫn và đặt trong dấu ngoặc kép. Dẫn với gắn liền với nhau không tách rời.
 - Mở bài bài văn nghị luận cần thuyết phục, gây ấn tượng.
 b,Thân bài: Có ba bước sau.
 - Bước 1: Phải giải thích vấn đề. Giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng, rút ra ý nghĩa của vấn đề. Tục ngữ, ca dao thì phải giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng. Câu văn, câu danh ngôn, câu thơ (Đặc biệt là thơ cổ)... thì ta phải giải thích từ khó, khái niệm, để từ đó tìm ra hàm nghĩa, nội dung ý nghĩa. Không thể đơn giản bước 1, nếu là nghị luận ca dao, tục ngữ, thơ văn cổ.
 - Bước 2: Bình- Nghĩa là phải khẳng định vấn đề đúng hay sai. Dùng lý lẽ để phân tích đúng sai của vấn dề. Chỉ ra được nguyên nhân: Tai sao đúng? Vì sao sai? Đúng sai như thế nào? . Có lúc người viết phải sử dụng một vài dẫn chứng để minh hoạ cho cái sai, cái đúng của vấn đề. Quan điểm, lập trường nhận thức về tư tưởng, đạo đức, về hoạ thuật của người nghị luận thể hiện rõ ở phần này. Cần một cách viết sắc và gọn, linh hoạt.Tính chất tranh luận, tự biện được bộc lộ.
 - Bước 3: Luận.
 Luận là bàn bạc, bàn luận, mở rộng lật đi lật lại vấn đề, đối chiếu vấn đề ( Về các mặt lịch sử, xã hội, học thuật, về lý luận và thực tiễn, trong không gian, thời gian và các lĩnh vực....) Có lúc so sánh với các vấn đề tương quan, liên quan. Cũng có lúc đánh giá vấn đề, nêu bật tác dụng và tác hại, mặt tích cực hoặc hạn chế của vấn đề.
 Đây là phần hay nhất và cũng là phần khó nhất. Nó thể hiện độ sâu, rộng của bài văn nghị luận. 
 Chú ý:
 Ba bước của một bài văn nghị luận là những bước đi cơ bản, cần có và phải có. Học sinh cần định hình ba bước ấy. Làm văn nói chung, nghị luận nói riêng, cần phải căn cứ vào đề bài cụ thể, phân tích cụ thể để vận dụng sáng tạo. Từ khuôn mẫu mà sáng tạo, ấy mới là làm văn.
 - Nghị luận ca dao, tục ngữ,  ... biểu.
- Đăng kí giờ học tốt,tuần học tốt.
- Thi văn nghệ chào mừng ngày 20/11.
- Thi sáng tác thơ ca ngợi thầy cô.
 - Thực hiện kế hoạch nhỏ.
12
Uống nước nhớ nguồn
- Hiểu biết về lịch sử vẻ vang của dân tộc và truyền thống của bộ đội cụ Hồ.
-Biết ơn những anh hùng đã ngã xuống vì độc lập tự do của dân tộc.
- Giữ gin và phát huy truyền thống ấy.
- Tìm hiểu truyền thống cách mạng địa phương.
- Thăm hỏi,động viên những gia đình có công với cách mạng.
- Thi kể chuyện,viết chuyện lịch sử.
- Tham gia lao động ở địa phương.
- Góp quỹ ủng hộ các bạn học sinh nghèo
- Thực hiện kế hoạch nhỏ.
 1- 2
Mừng đảng mừng xuân
-Hiểu được vai trò của Đảng CSVN trong phong trào GPDT.
- Nâng cao tinh thần yêu nước.Mừng xuân,mừng đất nước đổi mới
-Giữ gìn và phát huy lối sống tích cực,lành mạnh.
-Tìm hiểu về mùa xuân của đất nước và lịch sử ra đời của Đảng CSVN.
- Tìm hiểu về tấm gương Đảng viên ưu tú ở địa phương.
- Văn nghệ mừng Đảng,mừng xuân
- Trồng hoa,cây cảnh sân trường.
- Tham gia lao động bảo vệ môi trường nơi công cộng.
- Thực hiện kế hoạch nhỏ.
3
Tiến lên đoàn viên
- Hiểu được mục đích và truyền thống của đoàn.
- Tự hào về truyền thống của đoàn,phấn đấu để được làm lễ trưởng thành đội.
- Hiểu thêm về ý nghĩa ngày QTPN 8/3
- Tìm hiểu về truyền thống của đoàn
- Tìm hiểu về tấm gương đoàn viên ưu tú ở địa phương.
- Tổ xhức văn nghệ chào mừng ngày thành lập đoàn và cắm hoa kỉ niệm ngày 8-3.
- Tham gia cuộc thi viết về : “Chương trình thắp sáng ước mơ thiếu nhi sông Đà”
- Tham gia tháng thanh niên đối với học sinh lớp 9.
- Tổ chức trò chơi.
- Làm lễ trưởng thành đội cho đội viên lớn có phẩm chất đạo đức tốt.
4
Hoà bình và hữu nghị
- Hiểu biết về các vấn đề hoà bình và hữu nghị.
- Rèn kĩ năng hành động,ứng xử khi giao tiếp.
- Tìm hiểu về di sản văn hoá,phong tục tập quán trong và ngoài nước.
- Thi đua xây dựng khối đoàn kết giữa các lớp.
- Tìm hiểu về ngày 30/4 xung quanh nhân vật lịch sử.
- Nói lên suy nghĩ của mình trước lớp về ý 
 5
Bác hồ kính yêu
- Hiểu biết về thân thế và sự nghiệp của Bác.
-Xây dựng,vun đắp lòng yêu kính Bác.Biết ơn công lao của Bác.
- Học tập và làm theo tấm gương của Bác.
- Thi viết và sưu tầm những mẩu chuyện về Bác.
- Trao đổi nhóm lớp về 5 điều Bác dạy.
- Tìm hiểu về tình cảm của Bác với thiếu niên, nhi đồng.
- Chuẩn bị văn nghệ kỉ niệm ngày sinh nhật Bác.
- Làm lễ trưởng thành đội cho đội viên lớn có phẩm chất đạo đức tốt.
b.Bước 2: áp dụng cụ thể
 * Lồng trong tiết sinh hoạt chào cờ đầu tuần.
 - Đây là hoạt động tổng hợp toàn trường ,có sự tham gia của cả giáo viên và học sinh.Dưới sự điều khiển của anh chị tổng phụ trách , ban chỉ huy liên đội và có ý kiến chỉ đạo của nhà trường.
 - Đầu giờ người điều khiển có thể gợi khí thế mới bằng một số tiết mục văn nghệ của vài lớp.Sau mỗi tiết mục là chàng pháo tay cổ vũ để các em tự tin hơn.
 - Tiếp theo là phần đánh giá về hoạt động của các chi đội trong tuần về hai mặt :Học tập và nề nếp.Để các em thấy rằng:Mình cần phải học và rèn luyện cho mình và học để phục vụ quê hương,đất nước.
 - Tiếp sau thời gian đó có thể tổ chức thi kể chuyện theo chủ đề từng tháng hay diễn một trò chơi đơn giản,ngắn gọn,phù hợp với lứa tuổi các em.
 - Tổng phụ trách đưa ra phương hướng và chủ điểm hoạt động cho tuần tới.
 Bằng hình thức hoạt động này,tôi chắc chắn sẽ tạo cho các em hứng thú,vừa học,vừa chơi để rèn luyện được nhiều kĩ năng một cách nghiêm túc,hiệu quả.Vừa phát huy được tinh thần tập thể vừa phát huy tính mạnh dạn ở mỗi cá nhân.
 *Thực hiện tiết sinh hoạt lớp cuối tuần.
 - Hoạt động này do học sinh cùng nhau tổ chức xây dựng nội dung dưới sự cố vấn,giúp đỡ của giáo viên chủ nhiệm.
 - Nội dung hoạt động phải gắn với chủ điểm của tháng,tuần,kế hoạch của trường,của liên đội.
 - Hình thức tổ chức:Lớp trưởng tham gia đánh giá những ưu-nhược điểm của lớp trong tuần.Sau đó là ý kiến xây dựng,thảo luận của từng cá nhân hay đại diện tổ về việc xây dựng tổ chức hoạt động của lớp.Tiếp theo dưới sự điều khiển của lớp trưởng hoặc GVCN tổ chức tiết mục giải trí như:Thi hát đối,hát theo chủ đề,giải câu đố,thi kể chuyện hay theo chủ đề
 - Như vậy hoạt động này nhằm giáo dục ý thức tự quản của học sinh,phát triển những kĩ năng cơ bản và cần thiết của người học sinh THCS. Đồng thời góp phần xây dựng khối đoàn kết tập thể lớp.
c.Hoạt động vào ngày trọng điểm trong tháng (Các ngày lễ lớn)
 - Đây là dịp cho các em được thể hiện kết quả học tập và rèn luyện của mình- coi như là ngày hội của các em.Trong những ngày này học sinh tham gia với nhiều vai trò khác nhau.
 - Ngày hoạt động trọng điểm các em có cơ hội mở rộng mối quan hệ,giao lưu,học hỏi về nhiều mặt với thầy cô,bạn bè,cộng đồng,với môi trường thân thiện.Do đó bồi dưỡng cho các em những tình cảm trong sáng,rèn luyện kĩ năng giao tiếp và nhiều kĩ năng khác.
 - Thực hiện cụ thể như sau:
 +Ngày khai giảng năm học 2010-2011: Tôi đã phối hơp với BGH nhà trường và công đoàn tổ chức cho các em sinh hoạt văn nghệ chào mừng ngày toàn dân đưa trẻ đến trường tại lễ khai giảng của trường vào ngày 5/9/2010.Bên cảnh đó phối hợp với GVCN lập đội thi đấu các lớp tham gia các trò chơi dân gian như: Kéo co,Chèo thuyền trên cạnNhững hoạt động này thu hút được tát cả các em tham gia,cổ vũ và hưởng ứng phong trào.
 + Ngày nhà giáo Việt Nam 20/11:Tổ chức cho các lớp thi văn nghệ,thi đấu cầu lông,thi viết về tấm gương thầy, cô giáođã tổ chức thành công và được 100% các lớp tham gia.
 + Tháng 2 tổ chức cho các lớp tham gia thi viết bài ca ngợi,tìm hiểu về Đảng quang vinh,về Bác Hồ kính yêu và về chặng đường lịch sử oai hùng của dân tộc, để trau dồi cho các em tình yêu quê hương,đất nước,lòng biết ơn và tự hào về truyền thống đấu tranh vể vang của cha anh.Kết quả cụ thể:
Tổng số học sinh toàn trường
Tổng số bài dự thi
Tổng số bài đạt chất lượng
345
320
208
Tỉ lệ đạt
91%
59,7%
 + Ngày QTPN mồng 8/3 tổ chức cho các em gái ở các chi đội thi cắm hoa nghệ thuật thể hiện sự khéo léo từ đôi bàn tay của các em gái.Thu hút 100% các chi đội tham gia với kết quả cụ thể như sau:
TT
Xếp giải
Lớp
1
Nhất
6a, 7b, 8c
2
Nhì
8b, 6b, 9a
3
Ba
6c, 7a, 7c
4
Khuyến khích
8a, 9b, 9c
 + Hướng tới ngày thành lập đoànThanh niên 26/3 và tháng thanh niên tình nguyện
 (Tháng 3) tôi đã phối hợp cùng với chi đoàn trường và Ban chấp hành đoàn xã tổ chức cho học sinh khối 8,9 tham gia lao động vệ sinh môi trường ở trung tâm huyên Yên Thuỷ.Các em tham gia đầy đủ và tích cực.Qua đó giúp các em nhận thức được việc giữ gìn vệ sinh môi trường là trách nhiệm của mọi người.
+Dự định tổ chức thi kể chuyện về Bác để kỉ niệm ngày sinh nhật Bác ngày 19/5/2010.
 III. Kết quả thực hiện
 Qua quá trình thực hiện hoạt động, tôi nhận thấy đã rèn cho học sinh những kỹ năng sau:
 - Kỹ năng giao tiếp , ứng xử 
Kỹ năng nhận thức,điều chỉnh hành vi
Kỹ năng kiểm soát hành vi
Kỹ năng hợp tác làm việc theo nhóm
Kỹ năng tự giải quyết vấn đề
Kỹ năng biết lắng nghe tích cực
Kỹ năng đồng cảm,chia sẻ
Kỹ năng trình bày,thuyết trình
Kỹ năng tư duy,sáng tạo
Kỹ năng khen-chê tích cực
Kỹ năng tự tin,mạnh dạn
Kỹ năng độc lập,tự chủ,đoàn kết,yêu thương
Kỹ năng suy nghĩ tích cực,duy trì thái độ lạc quan
 C. Kết luận
 Theo chương trình đổi mới thì HĐGDNGLL là một hoạt động cần được quan tâm.Nó được tổ chức ngoài giờ học của các môn học nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với các môn học.Vì vậy HĐGDNGLL nhằm:
 - Củng cố,khắc sâu kiến thức các môn học,mở rộng và nâng cao tầm hiểu biết cho các em về các lĩnh vực đời sống xã hội ,làm phong phú thêm vốn tri thức,kinh nghiệm hoạt động tập thể của học sinh.
 - Rèn cho các em các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi với tư cách là chủ thể của hoạt động.Củng cố, phát triển hành vi thói quen tốt trong học tập,lao động và công tác xã hội.
 - Bồi dưỡng,khích lệ thái độ tích cực tham gia các hoạt động tập thể và hoạt động xã hội.Hình thành tình cảm chân thành,niềm tin trong sáng với cuộc sống,với quê hương đất nước, có thái độ đúng đắn với các hiện tượng tự nhiên xã hội.
Trên đây là một số suy nghĩ của tôi về việc rèn luyện kỹ năng sống cho các em học sinh bậc THCS.Tôi mong rằng với sự đóng góp nho nhỏ này sẽ đem lại hiệu quả nhất định trong công tác giáo dục và hy vọng nhận được sự đồng thuận và góp ý chân thành của nhà trường, tổ chuyên môn, đồng chí,đồng nghiệp, để sáng kiến này hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn. Tôi xin Trân thành cảm ơn!
 Yên Lạc, ngày 12 tháng 4 năm 2011
 Người viết sáng kiến
 Bùi Thị Thu
Bài của sáng kiến nhị luận
c,.Bài tập 3;
 Đề bài: Suy nghĩ của em về tình cảm cha con trong chiến tranh qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. 
 * Mở bài : 
 -Giới thiệu truyện ngắn " Chiếc lược ngà " với những nét nổi bật về nội dung và nghệ thuật.
 * Thân bài : 
 - Hoàn cảnh chiến tranh, ông Sáu đi chiến đấu xa nhà nên bé Thu hiếm khi gặp được cha.
 - Tình cảm cha con ông Sáu và bé Thu trải qua nhiều chịu đựng, thử thách, niềm tin , nghị lực.
 + Dù đã lâu không gặp nhau, nhưng khi cha trở về Thu nhất định không nhận cha -> ông Sáu rất buồn.
 + Sự mất mát tình cảm ấy là do chiến tranh . -> Ông lại phải lên đường để chiến đấu.
 + ở chiến khu niềm thương con, tình cha con là nguồn động viên tiếp thêm niềm tin cho ông Sáu.
 + Bé Thu với tình yêu cha -> tiếp nối con đường mà cha đã lựa chọn.
 - Tình cảm cha con biểu hiện ở từng nhân vật. 
 - Một số nét tiêu biểu về nghệ thuật: 
 + Tình huống éo le, thử thách.
 + Chi tiết đặc sắc.
 + Ngời kể chuyện.
 * Kết bài : 
 - Tình cảm cha con sâu sắc, cảm động của ông Sáu và bé Thu là nét ấn tượng nổi bật nhất của truyện.
 d,Bài tập 4:
Được sự đồng ý của BGH nhà trường, tổ chuyên môn, sự đóng góp ý kiến của bạn bè đồng nghiệp. Tôi đã mạnh dạn áp dụng đề tài này vào việc giảng dạy ở lớp 8b. Sau một thời gian đã đạt được những kết quả nhất định. Từ chỗ một bộ phận lớn học sinh ở lớp này rất lúng túng khi tiếp cận với thể loại văn nghị luận, chưa có kỹ năng về làm bài văn nghị luận, chưa phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa các hình thức nghị luận, việc xác định yêu cầu của từng hình thức nghị luận (đây là một khâu vô cùng quan trọng trong viết bài văn nghị luận) còn gặp nhiều khó khăn. Thì đến nay về cơ bản đa số các em đã hiểu rõ được bản chất của thể loại văn nghị luận, biết phân biệt được các yêu cầu khác nhau của từng hình thức nghị luận. Chính vì vậy hiệu quả bài viết thực hành của các em đã được nâng lên một bước rõ rệt. Sự lầm lẫn giữa các hình thức đã được hạn chế tối đa, đa số bài viết của đã có lập luận rõ ràng, lô gích chặt chẽ. Việc xác định, sắp xếp các luận điểm, luận cứ đã có những tiến bộ rõ rệt. Kết quả cụ thể như sau:
Sĩ số
Kết quả đạt được
Giỏi
%
Khá
%
TB
%
Yếu
%
Kém
%
32
0
0%
7
21,8 %
20
62,8%
4
12,5%
1
3,1%

Tài liệu đính kèm:

  • docsang kien kinh ngiem.doc