Sáng kiến kinh nghiệm "Phương pháp hướng dẫn học sinh trung bình yếu giải bài tập cơ học bằng hệ thống công thức, phân tích gợi mở và lập sơ đồ'' Vật lí Khối 8 - Năm học 2009-2010 - Trần Thanh Tùng

Sáng kiến kinh nghiệm "Phương pháp hướng dẫn học sinh trung bình yếu giải bài tập cơ học bằng hệ thống công thức, phân tích gợi mở và lập sơ đồ'' Vật lí Khối 8 - Năm học 2009-2010 - Trần Thanh Tùng

* Thể tích của một số vật có dạng hình học như: Hình trụ, hình hộp, hình cầu

* Diện tích của một số vật có dạng hình học thường gặp như: hình chữ nhật, hình vuông, hình tròn .

1.2. Bên cạnh đó, ngay cả những công thức các em đang học trong chương trình (mà theo tôi gọi là công thức nhóm iI ), các em cũng rất có thể quên hoặc là chưa hệ thống và chưa linh hoạt vận dụng được như:

* Vận tốc:

Trong đó: v là vận tốc, đơn vị là mét trên giây (m/s)

hoặc kilômét trên giờ (km/h).

 S là quảng đường, đơn vị là mét (m) hoặc kilômét.

 t là thời gian, đơn vị là giây (s) hoặc giờ (h).

* Vận tốc trung bình:

Trong đó: v là vận tốc trung bình trên cả quảng đường gồm nhiều đoạn đường.

 S1, S2 là các đoạn đường tương ứng.

 t1, t2 là thời gian tương ứng để đi hết các đoạn đường.

* Áp suất:

Trong đó: p là áp suất, đơn vị là Niutơn trên mét vuông(N/m2)

 hoặc paxcan(pa); 1 N/m2 = 1 pa

F là áp lực, đơn vị là Niutơn (N)

 S là diện tích bị ép, đơn vị là mét vuông (m2)

Lưu ý: Khi vật trên mặt phẳng nằm ngang thì độ lớn áp lực của vật tác dụng lên mặt bị ép nằm ngang chính là trọng lượng của vật

* Áp suất chất lỏng:

Trong đó: p là áp suất chất lỏng, đơn vị là Niutơn trên mét vuông(N/m2),

hoặc paxcan(pa); 1 N/m2 = 1 pa

 d là trọng lượng riêng của vật, đơn vị là Niutơn trên mét khối (N/m3)

 

doc 16 trang Người đăng tuvy2007 Lượt xem 602Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm "Phương pháp hướng dẫn học sinh trung bình yếu giải bài tập cơ học bằng hệ thống công thức, phân tích gợi mở và lập sơ đồ'' Vật lí Khối 8 - Năm học 2009-2010 - Trần Thanh Tùng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
	A. PHẦN MỞ ĐẦU.
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Trong việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng bộ môn nói riêng. Việc cải tiến phương pháp dạy học là một nhân tố quan trọng, bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, việc phát huy tính tích cực của học sinh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi vì xét cho cùng công việc giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động; việc khơi dậy phát triển ý thức năng lực tư duy, bồi dưỡng phương pháp tự học là con đường phát triển tối ưu của giáo dục. Cũng như trong học tập các bộ môn khác, học Vật lí lại càng cần phát triển năng lực tích cực, năng lực tư duy của học sinh để không phải chỉ biết mà còn phải hiểu để giải thích hiện tượng Vật lí cũng như áp dụng kiến thức và kỹ năng vào các hoạt động trong cuộc sống gia đình và cộng đồng.
Trong khuôn khổ nhà trường phổ thông, bài tập Vật lí thường là những vấn đề không quá phức tạp, có thể giải được bằng những suy luận lô gíc, bằng tính toán hoặc thực nghiệm dựa trên cơ sở những quy tắc Vật lí, phương pháp Vật lí đã quy định trong chương trình học. Nhưng bài tập Vật lí lại là một khâu quan trọng trong quá trình dạy và học Vật lí.
Việc giải bài tập Vật lí giúp củng cố đào sâu, mở rộng những kiến thức cơ bản của bài giảng, xây dựng củng cố kỹ năng kỹ xảo vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, là biện pháp quý báu để phát triển năng lực tư duy của học sinh, có tác dụng sâu sắc về mặt giáo dục tư tưởng, đạo đức lớn. Vì thế trong việc giải bài tập Vật lí mục đích cơ bản cuối cùng không phải chỉ tìm ra đáp số, tuy điều này cũng quan trọng và cần thiết, mục đích chính của việc giải là ở chỗ người làm bài tập hiểu được sâu sắc hơn các khái niệm, định luật Vật lí, vận dụng chúng vào những vấn đề thực tế trong cuộc sống, trong lao động.
Trong những năm vừa qua, với việc thay đổi chương trình sách giáo khoa và phương pháp dạy học tích cực đã mang lại những kết quả rõ nét về mọi mặt. Giáo viên phát huy được tính tích cực của học sinh, chất lượng giảng dạy được nâng cao, học sinh tiếp cận được với những kiến thức mới, tiếp cận khoa học kĩ thuậtĐặc biệt học sinh có khả năng tự hình thành kiến thức mới thông qua các thí nghiệm; thông qua kênh hình, kênh thông tin của sách giáo khoaQua đó kiến thức Vật lý của các em được mở rộng, khả năng vận dụng thực tế của các em được nâng lên.
 Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những khó khăn nhất định cho học sinh, nhất là học sinh khối 6,7, 8. Nguyên nhân là do mỗi tuần các em chỉ học một tiết vật lý, trong khi đó cả chương trình của 3 khối lớp này không hề có tiết bài tập, chính vì lí do này nhiều học sinh sẽ gặp khó khăn khi giải các bài tập của giáo viên cung cấp hoặc bài tập của sách bài tập. Đặc biệt, khó khăn nhất vẫn là học sinh khối 8. Đây là chương trình Vật lý mà các em bắt đầu thoát ra khỏi bài tập định tính để đi sau vào bài tập định lượng. Cụ thể là chương trình học kỳ I ( Chương I: Cơ học). Với lí do trên thì thời gian để hình thành cho các em kĩ năng làm bài tập là không nhiều, khiến cho chất lượng của các em tương đối thấp.
Với những thực tế như trên, bản thân tôi là một giáo viên mới vào nghề được 5 năm cảm thấy trăn trở. Do đó tôi cố gắng tìm những cách khác nhau để có thể giúp học sinh của mình nâng cao chất lượng, nhất là học sinh trung bình yếu. Sau một thời gian thử nghiệm tôi đã rút ra cho mình một số kinh nghiệm nhỏ đó là: Phương pháp hướng dẫn học sinh trung bình yếu giải bài tập cơ học bằng hệ thống công thức, phân tích gợi mở và lập sơ đồ.
II. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
	Việc dạy học Vật lí trong trường phổ thông hiện nay chưa phát huy được hết vai trò của bài tập Vật lí trong thực hiện các nhiệm vụ dạy học. Dạy học sinh giải bài tập Vật lí là một công việc khó khăn và ở đó bộc lộ rõ nhất trình độ của người giáo viên trong việc hướng dẫn hoạt động trí tuệ của học sinh.
	Về vấn đề này đã có rất nhiều tài liệu tham khảo của nhiều tác giả khác nhau dành cho học sinh, hầu hết đều đáp ứng được yêu cầu giúp học sinh rèn luyện kĩ năng giải bài tập Vật lí, củng cố và nâng cao kiến thức Vật lí. Song nhìn chung thường ghép với các chủ đề cụ thể. 	
B - NỘI DUNG ĐỀ TÀI.
I. TÊN ĐỀ TÀI: 
PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH YẾU GIẢI BÀI TẬP CƠ HỌC LỚP 8 BẰNG HỆ THỐNG CÔNG THỨC, PHÂN TÍCH GỢI MỞ VÀ LẬP SƠ ĐỒ
II. MỤC ĐÍCH THỰC HIỆN:
	Hình thành cho học sinh trung bình - yếu phương pháp giải một bài tập Vật lí, từ đó các em có thể vận dụng một cách thành thạo và linh hoạt trong việc giải các bài tập, nâng cao hiệu quả của bài tập, giúp các em nắm vững kiến thức trong quá trình học tập. 
III. ĐỐI TƯỢNG - PHẠM VI - THỜI GIAN :
1. Đối tượng: Phương pháp giải bài tập cơ học - Vật lí 8. 
2. Phạm vi: Đề tài được thực hiện với học sinh trung bình - yếu một số lớp ở khối 8 trường THCS Nguyễn Văn Cừ - Ninh Hòa - Khánh Hòa.
3. Thời gian thực hiện: Năm học 2009 - 2010.
IV. NHIỆM VỤ THỰC HIỆN:
1. Tìm hiểu về phương pháp giải bài tập Vật lí.
2. Tìm hiểu, nắm vững chương trình nội dung kiến thức phần cơ học - Vật lí ở cấp THCS. 
3. Tìm hiểu tình hình dạy và học Vật lí. Đặc biệt quan tâm đến hoạt động sử dụng bài tập Vật lí. 
V. PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN:
1. Đọc sách, nghiên cứu tài liệu.
2. Theo dõi, thu thập kết quả.
3. Phương pháp thử nghiệm thực tế.
VI. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:	
Trước khi thực hiện đề tài, qua giảng dạy ở trường THCS Nguyễn Văn Cừ, qua tìm hiểu và trao đổi với đồng nghiệp tôi nhận thấy: Đa số học sinh ham mê học bộ môn Vật lí, nhưng khi làm các bài tập vật lí các em thường lúng túng trong việc định hướng giải, có thể nói hầu như các em chưa biết cách giải cũng như trình bày lời giải. 
	Theo tôi, thực trạng nêu trên có thể do một số nguyên nhân sau:
 	 + Học sinh chưa có phương pháp tổng quan để giải một bài tập Vật lí.
	 + Học sinh chưa biết vận dụng các kiến thức, định luật Vật lí, công thức vật lí....
	 + Nội dung cấu trúc chương trình sách giáo khoa mới hầu như không dành thời lượng cho việc hướng dẫn học sinh giải bài tập hay luyện tập ( đặc biệt là chương trình vật lí ở các lớp: 6, 7, 8), dẫn đến học sinh không có điều kiện bổ sung, mở rộng và nâng cao kiến thức cũng như rèn kỹ năng giải bài tập Vật lí.
VII. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 
1. Vấn đề 1: Học sinh không hệ thống được những kiến thức đã học, và điều đáng đề cập nhất ở đây là học sinh ít làm bài tập, chưa hình thành cho mình kĩ năng làm bài, lúng túng khi sử dụng công thức, dù đó là công thức quen thuộc nhất. 
1.1. Trong quá trình giải bài tập, hầu hết học sinh hay quên nhất là những công thức sau, mà theo tôi gọi là công thức nhóm I: 
* Hệ thức liên hệ giữa trọng lượng và khối lượng: 
Trong đó: 	P là trọng lượng của vật, đơn vị là Niutơn (N); 
m là khối lượng, đơn vị là kilôgam(kg).
* Khối lượng riêng: 	
Trong đó : 	D là khối lượng riêng, đơn vị là kilôgam trên mét khối (Kg/m3)
m là khối lượng, đơn vị là kilôgam(kg).
V là thể tích của vật, đơn vị là mét khối(m3)
* Trọng lượng riêng: 
Trong đó: 	d là trọng lượng riêng của vật, đơn vị là Niutơn trên mét khối (N/m3)
P là trọng lượng của vật, đơn vị là Niutơn (N);
V là thể tích của vật, đơn vị là mét khối(m3)
* Hệ thức liên hệ giữa trong lượng riêng và khối lượng riêng: 
* Thể tích của một số vật có dạng hình học như: Hình trụ, hình hộp, hình cầu
* Diện tích của một số vật có dạng hình học thường gặp như: hình chữ nhật, hình vuông, hình tròn.
1.2. Bên cạnh đó, ngay cả những công thức các em đang học trong chương trình (mà theo tôi gọi là công thức nhóm iI ), các em cũng rất có thể quên hoặc là chưa hệ thống và chưa linh hoạt vận dụng được như:
* Vận tốc: 
Trong đó:	v là vận tốc, đơn vị là mét trên giây (m/s) 
hoặc kilômét trên giờ (km/h).
	S là quảng đường, đơn vị là mét (m) hoặc kilômét.
	t là thời gian, đơn vị là giây (s) hoặc giờ (h).
* Vận tốc trung bình: 
Trong đó:	v là vận tốc trung bình trên cả quảng đường gồm nhiều đoạn đường.
	S1, S2 là các đoạn đường tương ứng.
	t1, t2 là thời gian tương ứng để đi hết các đoạn đường.
* Áp suất: 
Trong đó: 	p là áp suất, đơn vị là Niutơn trên mét vuông(N/m2)
 hoặc paxcan(pa); 1 N/m2 = 1 pa
F là áp lực, đơn vị là Niutơn (N)
	S là diện tích bị ép, đơn vị là mét vuông (m2)
Lưu ý: Khi vật trên mặt phẳng nằm ngang thì độ lớn áp lực của vật tác dụng lên mặt bị ép nằm ngang chính là trọng lượng của vật 
* Áp suất chất lỏng: 
Trong đó: 	p là áp suất chất lỏng, đơn vị là Niutơn trên mét vuông(N/m2), 
hoặc paxcan(pa); 1 N/m2 = 1 pa
	d là trọng lượng riêng của vật, đơn vị là Niutơn trên mét khối (N/m3)
h là độ sâu của điểm cần tính áp suất so với mặt thoáng chất lỏng, đơn vị là mét (m).
* Lực đẩy Ácsimét: 
Trong đó: 	F là lực đẩy Ácsimét , đơn vị là Niutơn (N).
V là thể tích của phần chất lỏng bị vật chiếm chổ
 đơn vị là mét khối (m3).
* Sự nổi: Khi nhúng một vật vào chất lỏng thì
	+ Vật chìm xuống khi: 
	+ Vật nổi lên khi : 
	+ Vật lơ lững trong lòng chất lỏng khi: 
* Công cơ học: 
Trong đó: 	A là công của lực F, đơn vị là Jun (J).
F là lực tác dụng lên vật , đơn vị là Niutơn (N).
	S là quảng đường vật dịch chuyển, đơn vị là mét (m).
Lưu ý: 	+ Công của trọng lực: 
+ Công của lực kéo vật lên đều theo phương thẳng đứng: 
* Công suất: 
Trong đó:	 là công suất, đơn vị là Oát (W) hoặc Jun trên giây (J/s).
	A là công thực hiện, đơn vị là Jun (J).
	t là thời gian, đơn vị là giây (s).
 Chính vì những lí do trên mà chúng ta cần hệ thống cho học sinh các công thức các em đã học bằng những hình thức như sau:
- Ngay từ đầu chương cơ học giáo viên chúng ta phải nhắc lại cho học sinh những công thức ở nhóm I. Trên cơ sở này khi các em tiếp thu công thức mới các em sẽ liên tưởng được với công thức cũ, vận dụng để chứng minh công thức mới.
- Trong các bài dạy có những công thức mới mà được vận dụng từ công thức cũ thì giáo viên tiếp tục hệ thống lại để kiến thức này in sâu vào tiềm thức các em. 
Cơ học
Vận tốc: 	
Công thức liên quan
Vận tốc
Lực
Áp suất
Công cơ học
Công suất
Vận tốc trung bình: 
Trọng lực: 	
Lực ma sát
Lực đẩy Ác si mét:	 
Áp suất: 	
Áp suất chất lỏng:	 
Áp suất khí quyển
Áp suất khí quyển
Thể tích vật có dạng hình học
Diện tích vật có dạng hình học
- Ngoài ra giáo viên còn có thể lập cho HS cây thư mục công thức như sau để HS dễ nhớ, linh hoạt vận dụng.
- Cuối cùng, giáo viên cần lưu ý việc biến đổi các công thức của các em. Theo kinh nghiệm của tôi thì rất nhiều học sinh yếu kém trong việc biến đổi các công thức. 
Ví dụ như: hoặc 
Điều này hạn chế rất lớn đến việc định hướng giải bài tập của các em. Chính vì vậy, đối với học sinh trung bình - yếu, giáo viên cần có một sự nhiệt tình giúp đỡ các em củng cố công thức, biến đổi công thức một cách hợp lí nhất, từ đó hình thành cho các em kĩ năng giải bài tập.
2. Vấn đề 2: Khi học sinh đã nắm vững được hệ thống công thức thì giáo viên cần biết phân tích gợi mở, giúp học sinh định hướng được cách làm bài tập, vận dụng các công thức trong từng trường hợp.
- Giáo viên cần hướng cho học sinh cách xác định các đại lượng đề cho, sự đồng nhất đơn vị, những đại lượng cần tìm và những vướng mắc bước đầu của học sinh. Đa số học sinh khi đọc đề rất ít quan tâm đến việc tóm tắt đề, trong khi đó là bước quan trọng để học sinh định hướng bài giải, biết phải tìm những đại lượng nào là trung gian để đi đến kết quả cuối cùng.
- Giúp học sinh xác định được những công thức chính cần dùng. Cụ thể như, một đề bài yêu cầu học sinh tìm áp suất, tức là học sinh phải biết công thức chính cần dùng là , đó là công thức chúng ta sẽ dùng cuối cùng trong bài giải để đưa ra kết quả. Bên cạnh đó có thế sẽ dùng nhưng công thức trung gian để tính F hoặc S. Vậy học sinh xác định những công thức này ở đâu? Học sinh sẽ dựa trên trí nhớ của riêng mình, hoặc nếu các em chưa kịp thời nhớ ra thì các em có thể dùng ngay bảng hệ thống mà chúng ta đã hình thành để vận dụng.
- Lập sơ đồ theo hình thức quy nạp vấn đề, gợi mở cho học sinh xác định từng đại lượng liên quan để đi đến kết quả:
Đại lượng chính cần tìm
Đại lượng trung gian 1
Kết quả
Bước 1
Đại lượng trung gian 2
Đại lượng trung gian 1’
Đại lượng trung gian 2’
Bước 2
Bước 3
VIII. ÁP DỤNG VÀO MỘT SỐ BÀI TẬP CƠ BẢN.
1. Dạng bài tập trực tiếp: Là dạng bài cho đại lượng cụ thể, chỉ áp dụng công thức tính ngay, không cần tìm các đại lượng trung gian.
Bài toán 1: Một ô tô chuyển động trên đoạn đường 120000 m trong hai giờ. Hỏi vận tốc của xe ôtô ?
Với bài tập đơn giản này HS có thể làm được dễ dàng nhưng vấn đề đặt ra là ở chỗ: Liệu học sinh có nhận biết được các đại lượng đã cho và cần tìm trong bài tập hay không? Dùng công thức tương ứng nào để tính toán?
Vì vậy giáo viên chúng ta cần yêu cầu học sinh tóm tắt được đề bài, để học sinh xác đinh được các đại lượng đã cho và đại lượng cần tìm. Nếu các em không xác định được thì giáo viên định hướng và dần sẽ hình thành cho các em kĩ năng. Sau đó, đặt câu hỏi phân tích gợi mở, đồng thời hình thành sơ đồ để tìm ra đáp án. Chúng ta có thể làm như sau:
Câu hỏi gợi mở
HS phát hiện
Sơ đồ
Đề cho biết những đại lượng nào?
Quảng đường S và thời gian t
S
t
Đơn vị của các đại lượng đã đồng nhất chưa? Nếu chưa thì phải làm như thế nào? 
Chưa đồng nhất, đổi đơn vị từ giờ ra giây hoặc đổi m sang km
Muốn tính vận tốc của ô tô thì dùng công thức nào? 
2. Dạng bài tập có các bước trung gian: Đây là dạng bài tập đòi hỏi học sinh cao hơn, có các bước bị khuyết mà yêu cầu học sinh phải tìm ra mới đi đến kết quả cuối cùng. 
Bài toán 2: Một người có khối lượng 70kg đứng trên sàn nhà. Biết diện tích tiếp xúc của mỗi bàn chân lên sàn là 16cm2. Tính áp suất của người tác dụng lên sàn nhà?
Với bài tập này học sinh cần xác định được đại lượng cần tìm là áp suất P,
 đại lượng trung gian là áp lực và diện tích bị ép. Trong đó, áp lực của người tác dụng lên sàn nhà có độ lớn bằng độ lớn của trọng lực tác dụng lên người; diện tích bị ép là tổng diện tích của hai bàn chân.
Câu hỏi gợi mở
HS phát hiện
Sơ đồ
Đề cho biết những đại lượng nào?
Khối lượng m; diện tích tiếp xúc của hai bàn chân.
F
S
Đơn vị của các đại lượng đã đồng nhất chưa? Nếu chưa thì phải làm như thế nào? 
Chưa đồng nhất, đổi đơn vị từ cm2 sang m2
Muốn tính áp suất của người tác dụng lên mặt sàn thì ta phải dùng công thức nào? 
Muốn tính được áp suất thì phải biết được đại lượng nào?
Phải biết được áp lực F và diện tích bị ép S.
Diện tích bị ép là diện tích nào?
Diện tích bị ép băng tổng diện tích của hai bàn chân.
Áp lực của người tác dụng lên mặt sàn trong trường hợp này được tính như thế nào?
Người đứng trên mặt phẳng nằm ngang nên áp lực của người tác dụng lên mặt sàn có độ lớn bằng trọng lượng của người:
Bài toán 3: Một ô tô chuyển động đều với vận tốc 36km/h trong 15 phút, với lực kéo của động cơ là 1000N. Tính công suất của ô tô?
Với bài toán này, học sinh cần xác định được đại lượng cần tìm là công suất của 
ô tô, đại lượng trung gian là công của lực động cơ và quảng đường.
Câu hỏi gợi mở
HS phát hiện
Sơ đồ
Đề cho biết những đại lượng nào?
Vận tốc v; thời gian t; lực kéo F.
t
Công suất cần tìm có đơn vị là J/s. Vậy cần đổi đơn vị vận tốc và thời gian như thế nào?
Đổi km/h sang m; phút sang giây.
Muốn tính công suất phải dùng công thức nào?
Theo đề bài này thì chúng ta cần phải đi tìm đại lượng nào trong hai đại lượng trên?
Cần đi tìm công của lực động cơ thực hiện.
Để tìm công của lực động cơ thì phải dùng công thức nào?
Đề đã cho chúng ta lực động cơ, vậy chúng ta cần đi tìm đại lượng nào?
Cần tính được quảng đường s
Để tính được quảng đường s phải dùng công thức nào?
IX. KẾT QUẢ THỰC HIỆN.
Từ việc hướng dẫn học sinh phương pháp giải một bài tập vật lý nêu trên, trong HKI năm học 2009 – 2010 vừa qua, tôi thấy đa số học sinh trung bình - yếu đã vận dụng một các linh hoạt vào việc giải bài tập, học sinh có khả năng tư duy tốt hơn, có kỹ năng vận dụng kiến thức vào giải bài tập tốt hơn, linh hoạt hơn. Tuy nhiên điều tôi nhận thấy ở đây là: Sau khi vận dụng kinh nghiệm này vào thực tế giảng dạy tại trường, thì có một bộ phận học sinh tuy chưa có kết quả trên trung bình, nhưng thực sự các em đã có bước tiến bộ hơn so với trước đây về thái độ tình cảm, lòng yêu thích bộ môn và có khả năng dần định hình được các bước giải bài tập Vật lý.
Cụ thể chất lượng bộ môn vật lý 8 HKI của trường do tôi phụ trách trong 3 năm gần đây như sau: 
Năm học
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
TBình
Yếu ,Kém
Trên TB
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2007
2008
8/1
40
25
62.5
10
25.0
5
12.5
0
0.0
40
100.0
8/7
39
7
17.9
9
23.1
10
25.6
13
33.3
26
66.7
8/8
35
5
14.3
7
20.0
12
34.3
11
31.4
24
68.6
2008
2009
8/1
40
30
75.0
8
20.0
2
5.0
0
0.0
40
100.0
8/2
37
8
21.6
11
29.7
7
18.9
11
29.7
26
70.3
8/3
38
4
10.5
13
34.2
10
26.3
11
28.9
27
71.1
8/6
38
8
21.1
7
18.4
14
36.8
9
23.7
29
76.3
2009
2010
8/1
39
28
71.8
8
20.5
3
7.7
0
0.0
39
100.0
8/2
37
4
10.8
8
21.6
16
43.2
9
24.3
28
75.7
8/5
39
5
12.8
10
25.6
14
35.9
10
25.6
29
74.4
8/6
37
5
13.5
7
18.9
10
27.0
15
40.5
22
59.5
C. KẾT LUẬN.
I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
	Trong quá trình giảng dạy bộ môn Vật lí ở trường THCS việc hình thành cho học sinh phương pháp, kỹ năng giải bài tập Vật lí là hết sức cần thiết, để từ đó giúp các em đào sâu, mở rộng những kiến thức cơ bản của bài giảng, vận dụng tốt kiến thức vào thực tế, phát triển năng lực tư duy cho các em, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, cụ thể là :
 + Giúp học sinh có thói quen phân tích đầu bài, hình dung được các hiện tượng Vật lí xảy ra trong bài toán để tìm hướng giải.
 + Trong một bài tập giáo viên cần hướng cho học sinh nhiều cách giải (nếu có thể ). Để kích thích sự hứng thú, say mê học tập cho học sinh rèn thói quen tìm tòi lời giải hay cho một bài toán Vật lí.
 + Khắc sâu cho học sinh nắm chắc các kiến thức bổ trợ khác. Có như vậy việc giải bài tập Vật lí của học sinh mới thuận lợi và hiệu quả. 
Để làm được điều này:
- Giáo viên cần tự bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, thường xuyên trao đổi, rút kinh nghiệm với đồng nghiệp.
- Nắm vững chương trình bộ môn toàn cấp học. 
- Giáo viên giúp học sinh nắm vững các kiến thức cần nhớ để ôn tập, nhớ lại kiến thức cơ bản, lần lượt nghiên cứu kỹ các phương pháp giải bài tập sau đó giải các bài tập theo hệ thống từ dễ đến khó, so sánh các dạng bài tập để khắc sâu nội dung kiến thức và cách giải. Từ đó học sinh tự hình thành cho mình kỹ năng giải bài tập.
	Những sáng kiến đặt ra ở trên vận dụng phù hợp nhất cho những đối tượng học sinh yếu. Bởi vì, đối tượng học sinh này kĩ năng vận dụng kiến thức và công thức để giải bài tập còn hạn chế, ý thức tự giác của các em chưa cao. Do đó phương pháp trên phần nào dần dần hình thành cho các em kĩ năng định hướng và vận dụng linh hoạt công thức để giải bài tập, đồng thời gợi cho các em sự hứng thú sau mỗi lần làm được một bài tập mà trước đây các em thường cho là khó khăn và nhàm chán. 
II. KẾT LUẬN CHUNG. 
	Dạy học nhằm góp phần quan trọng để hình thành nhân cách con người lao động mới, sáng tạo, thích nghi với xã hội ngày càng phát triển. Do vậy phương pháp dạy học bộ môn phải thực hiện được các chức năng nhận thức, phát triển và giáo dục, tức là lựa chọn phương pháp dạy học bộ môn sao cho học sinh nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và vận dụng tri thức vào thực tiễn.
	Đặc biệt Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm đòi hỏi phát huy cao độ tính tích cực, độc lập sáng tạo của học sinh trong quá trình lĩnh hội tri thức. Chính vì vậy lựa chọn phương pháp dạy học bộ môn vật lí, người giáo viên cần căn cứ vào phương pháp đặc thù của khoa học lấy hoạt động nhận thức của học sinh làm cơ sở xuất phát.
	 Sau thời gian nghiên cứu tìm hiểu, được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu nhà trường cũng như tổ chuyên môn tôi đã thực hiện thành công việc: “Phương pháp hướng dẫn học sinh trung bình - yếu giải bài tập cơ học bằng hệ thống công thức, phân tích gợi mở và lập sơ đồ” với mong muốn: phát triển năng lực duy rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh trong việc học tập bộ môn Vật lí. Nhằm nâng cao chất lượng bộ môn nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nói chung.
	Tuy nhiên vì diều kiện thời gian, cũng như tình hình thực tế nhận thức của học sinh ở địa phương nơi tôi công tác và năng lực cá nhân có hạn, nên việc thực hiện đề tài này chắc hẳn không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong các đồng chí và các bạn đồng nghiệp, trao đổi và góp ý để giúp tôi hoàn thiện hơn trong chuyên môn.
	Tôi xin chân thành cảm ơn !
	Ninh Sơn, ngày 20 tháng 03 năm 2010.
	Người viết
	 Trần Thanh Tùng
PHÒNG GD&ĐT NINH HÒA
Đơn vị: Trường THCS Nguyễn Văn Cừ
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
PHIẾU GIÁM ĐỊNH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Họ tên người giám định: .
Đơn vị: 
Tên đề tài: ..
.
Người thực hiện: .
Đơn vị: 
I. VỀ NỘI DUNG: (Nêu nhận xét và cho điểm)
1. Tính mới: (20 điểm):
.
2. Tính hiệu quả: (25 điểm)
3. Tính khoa học: (25 điểm )
.
4. Tính ứng dụng thực tiễn: (20 điểm )
II. VỀ HÌNH THỨC: (10 điểm) (Nêu nhận xét và cho điểm)
.
III. XẾP LOẠI CHUNG: .
Ngày tháng năm .
Người giám định 1	Người giám định 2
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT HUYỆN NINH HÒA:
.....
.....
.....
.....
.....
.....
.....
.....
.....
.....
.....
.....
.....
.....

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN.doc