Trường THCS dạy toán là dạy hoạt động toán học cho học sinh, trong đó giải toán là đặc trưng chủ yếu
của hoạt động toán học của HS. Để rèn luyện kỹ năng giải toán cho HS ngoài việc trang bị tốt kiến thức cơ
bản cho HS giáo viên cần hướng dẫn cho HS biết cách khai thác, mở rộng kết quả các bài toán cơ bản để
HS suy nghĩ tìm tòi những kết quả mới sau mỗi bài toán .
Nhưng thật tiếc là trong thực tế chúng ta chưa làm được điều đó một cách thường xuyên. Phần lớn GV chúng
ta chưa có thói quen khai thác một bài toán thành một chuỗi bài toán liên quan, trong giải toán chúng ta chỉ
dừng lại ở việc tìm ra kết quả của bài toán. Điều đó làm cho HS khó tìm được mối liên hệ giữa các kiến thức
đã học. Cho nên khi bắt đầu giải một bài toán mới HS không biết phải bắt đầu từ đâu? cần vận dụng kiến
thức nào? bài toán có liên quan đến những bài toán nào đã gặp?
Hình học không đơn thuần ""Chỉ vẽ hình là ra"".Nó cũng đòi hỏi cần phải có suy luận, phân tích, tưởng tượng
cái đức tính cần có của người làm toán. Các bạn đã bao giờ tự hỏi, tại sao nhiều người tự mình sáng tạo ra
được rất nhiều bài toán trong các lĩnh vực như đại số, giải tích, số học, .nhưng trong hình học lại quá ít
như vậy hay chưa? Nếu xem xét một cách nghiêm túc thì trong hình học không phải khó tìm ra sự sáng tạo
mà vấn đề là chúng ta đã dành cho hình học sự quan tâm ở mức nào.
Trong quá trình dạy toán và bồi dưỡng HS giỏi toán tôi thấy rằng việc tìm tòi mở rộng các bài toán quen
thuộc thành các bài toán mới, tìm các cách giải khác nhau cho 1 bài toán để từ đó khác sâu kiến thức cho
HS là một phương pháp khoa học và hiệu quả.Qúa trình này bắt đầu từ các bài toán đơn giản đến bài tập
khó là là bước đi phù hợp để rèn luyện năng lực tư duy cho HS.
Một điều chắc chắn rằng việc tìm tòi mở rộng bài toán sẽ kích thích hứng thú học tập và óc sáng tạo của
HS .
Từ đó giúp HS có cơ sở khoa học khi phân tích , định hướng tìm lời giải cho ác bài toán khác. Hơn nữa là
củng cố cho HS lòng tin vào khả năng giải toán của mình.
Chỉ vậy thôi, chúng ta đã nhen nhóm lên trong các em một tình yêu toán học, một môn học được coi là quá
khô khan.
Trong bài viết này tôi xin đưa ra 2 bài toán gốc để giới thiệu cách khai thác kết quả và mở rông bài toán
như thế nào
PHO PHỊNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THANH CHƯƠNG TRƯỜNG THCS TƠN QUANG PHIỆT =====***===== SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài HƯỚNG DẪN HỌC SINH KHÁ, GIỎI SÁNG TẠO CÁC BÀI TỐN MỚI TỪ BÀI TỐN GỐC Nàm hoüc 2007 üüü - 2008 GIÁO VIÊN: LÊ THANH HỒ THÁNG: 4/2008 Năm học: 2007 - 2008 Người viết: Lê Thanh Hoà Giáo viên toán trường THCS Tôn Quang Phiệt PHÒNG GIÁO DỤC THANH CHƯƠNG Trường THCS Tôn Quang Phiệt HƯỚNG DẪN HỌC SINH KHÁ GIỎI TOÁN Ù Ã Ï Ù Û ÙÙ Ã Ï Ù Û ÙÙ Ã Ï Ù Û Ù SÁNG TẠO CÁC BÀI TOÁN MỚI TỪ BÀI Ù Ï Ù Ø Ù Ù Ø ØÙ Ï Ù Ø Ù Ù Ø ØÙ Ï Ù Ø Ù Ù Ø Ø TOÁN GỐCÙ ÁÙ ÁÙ Á 2.Mục đích nghiên cứu Đây là một đề tài rộng và ẩn chứa nhiều thú vị bất ngờ thể hiện rõ vẻ đẹp của môn hình học, đặc biệt nó giúp phát triển khả năng tư duy sáng tạo của học sinh, nếu vấn đề này được quan tâm thường xuyên trong dạy học của các thầy cô giáo thì chắc chắn đề tài sẽ là kinh nghiệm bổ ích trong việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ học sinh khá giỏi toán. Vì trong thực tế dạy học toán rất nhiều bài toán mà trong khi giải ta có thể tìm được nhiều ý tưởng hay độc đáo để từ đó có thể sáng tạo nên chuỗi bài tập liên quan với nhau, có thể tổng quát hoá bài toán... nhưng trong khuôn khổ của bài viết này tôi chỉ xin phép đưa ra 2 bài toán mẫu để minh hoạ cho 1 ý tưởng dạy học toán ""Dạy toán là dạy cho học sinh biết cách sáng tạo toán"" 3.Đối tượng và phạm vi áp dung: Đề tài này được viết trong quá trình dạy và học của tôi tại trường THCS Tôn Quang Phiệt là 1 trường trọng điểm của huyện nên có nhiều học sinh có khả năng tiếp thu học tập môn toán, học sinh rất ham học và tìm tòi cái mới. Việc thể hiện đề tài khá thuận lợi. I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 1.Lý do chọn đề tài Ở trường THCS dạy toán là dạy hoạt động toán học cho học sinh, trong đó giải toán là đặc trưng chủ yếu của hoạt động toán học của HS. Để rèn luyện kỹ năng giải toán cho HS ngoài việc trang bị tốt kiến thức cơ bản cho HS giáo viên cần hướng dẫn cho HS biết cách khai thác, mở rộng kết quả các bài toán cơ bản để HS suy nghĩ tìm tòi những kết quả mới sau mỗi bài toán . Nhưng thật tiếc là trong thực tế chúng ta chưa làm được điều đó một cách thường xuyên. Phần lớn GV chúng ta chưa có thói quen khai thác một bài toán thành một chuỗi bài toán liên quan, trong giải toán chúng ta chỉ dừng lại ở việc tìm ra kết quả của bài toán. Điều đó làm cho HS khó tìm được mối liên hệ giữa các kiến thức đã học. Cho nên khi bắt đầu giải một bài toán mới HS không biết phải bắt đầu từ đâu? cần vận dụng kiến thức nào? bài toán có liên quan đến những bài toán nào đã gặp? Hình học không đơn thuần ""Chỉ vẽ hình là ra"".Nó cũng đòi hỏi cần phải có suy luận, phân tích, tưởng tượng cái đức tính cần có của người làm toán. Các bạn đã bao giờ tự hỏi, tại sao nhiều người tự mình sáng tạo ra được rất nhiều bài toán trong các lĩnh vực như đại số, giải tích, số học, ....nhưng trong hình học lại quá ít như vậy hay chưa? Nếu xem xét một cách nghiêm túc thì trong hình học không phải khó tìm ra sự sáng tạo mà vấn đề là chúng ta đã dành cho hình học sự quan tâm ở mức nào. Trong quá trình dạy toán và bồi dưỡng HS giỏi toán tôi thấy rằng việc tìm tòi mở rộng các bài toán quen thuộc thành các bài toán mới, tìm các cách giải khác nhau cho 1 bài toán để từ đó khác sâu kiến thức cho HS là một phương pháp khoa học và hiệu quả.Qúa trình này bắt đầu từ các bài toán đơn giản đến bài tập khó là là bước đi phù hợp để rèn luyện năng lực tư duy cho HS. Một điều chắc chắn rằng việc tìm tòi mở rộng bài toán sẽ kích thích hứng thú học tập và óc sáng tạo của HS . Từ đó giúp HS có cơ sở khoa học khi phân tích , định hướng tìm lời giải cho ác bài toán khác. Hơn nữa là củng cố cho HS lòng tin vào khả năng giải toán của mình. Chỉ vậy thôi, chúng ta đã nhen nhóm lên trong các em một tình yêu toán học, một môn học được coi là quá khô khan. Trong bài viết này tôi xin đưa ra 2 bài toán gốcï để giới thiệu cách khai thác kết quả và mở rông bài toán như thế nào Hình 3 Gọi K là trực tâm AEN thì NK = NB(do AK // ON; O là trung điểm AB) => EK // BF (vì cùng vuông góc với AC). Từ đó ta dễ chứng minh: EKN = FBN (g.c.g) => NE = NF Hình 2 Hình 1 Lời giải : a.Gọi N' là giao điểm của AD và BC, thì N'N vuông góc AB ta chứng minh M thuộc N'N. Lấy M' là trung điểm N'N ta dễ chứng minh M'D vuông góc DO và M'C vuông góc CO => M' là giao điểm 2 tiếp tuyến kẻ từ D,C => M' trùng M => MN vuông góc AB b. CÁCH 1.(hình 1) Gọi B' là điểm đối xứng của b qua N thì B'A // NO => B'A vuông góc NE => B'E vuông góc AN => B'E // BF .Từ đây dễ chứng minh B'NE = BNF (g.c.g) => NE = NF CÁCH 2.(hình 2) Kẻ OH vuông góc AD ; OI vuông góc BC Từ sự đồng dạng của 2 tam giác: DAN và CBN Lại có các tứ giác ONHE ; ONFI nội tiếp ta suy ra: gócNHO = gócNEO = gócNIO = gócNFO => EOF cân tại O => NE = NF Nhận xét: Sau khi giải bài toán tôi thấy rằng bài toán có thể được xây dựng thành các bài toán khác ở mức độ khó hơn. Sau đây tôi xin nêu 1 số suy nghĩ đó: HƯỚNG KHAI THÁC THỨ NHẤT (sáng tạo ra các bài toán mới với giả thiết rộng hơn) 1.TÌNH HUỐNG1:Trước khi đưa ra bài toán mới GV cần đưa ra câu hỏi gợi mở để HS suy nghĩ và phát hiện vấn đề, ví dụ như: ?. Hãy xác định xem GT nào của bài toán là giả thiết HẸP, có thể thay bằng một GT RỘNG hơn như thế nào? ? với GT mới kết quả bài toán sẽ như thế nào? Bài 1.1: Cho đường tròn (O) đường kính AB. Các dây cung AC,BD cắt nhau tại N. Qua N vẽ đường thẳng vuông góc NO, đường úthẳng này cắt các đường thẳng AD,BC lần lượt tại E, F. Chứng minh NE = NF Lời giải: (Hình 3) BÀI TOÁN XUẤT PHÁT 1 :( đề thi HSG lớp 9 tỉnh nghệ an năm 2008) Cho đường tròn O đường kính AB và dây cung CD( C,D không trùng với A,B). Gọi M là giao điểm các tiếp tuyến của đường tròn tại C,D ; N là giao điểm các dây cung AC và BD. Đường thẳng qua N và vuông góc NO cắt AD,BC tại E,F. Chứng minh: a. MN vuông góc với AB b. NE = NF E F B' N K N' F E N A I H F E N N' B M N' B M O O O B D C A D C A C D Lời giải: (hình 6) Kẻ OP vuông góc AC ; OQ vuông góc BD khi đó các tứ giác OQNE; OPNF nội tiếp nên ta có: gócNOF = gócNPF (1) gócNOE = gócNQE (2) NCA đồng dạng NDB (g.g) lại có P; Q là trung điểm của AC; BD nên => NPC đồng dạng NQD => gócNQD = gócNPC hay là gócNQE = gócNPF (3). từ (1);(2);(3) => gócNOE = gócNOF kết hợp với NO vuông góc EF ta suy ra EOF cân tại O => NE = NF Hình 6 Bài 1.4: Cho tứ giác ABCD nội tiếp đường tròn (O).Các đường thẳng AD, BC cắt nhau tại N ở ngoài (O). Đường thẳng qua N vuông góc NO cắt các đường thẳng AC, BD tại E,F. Chứng minh: NE = NF Hình 5 Hình 4 Lời giải:(Hình 4) Lấy B' đối xứng với B qua N. Khi đó B'A // NO => B'A ⊥ NF vì B'N vuông góc AF => N là trực tâm của B'AF => AN vuông góc B'F => BE // B'F (vì cùng vuông góc với AN) Từ đây dễ dàng chứng minh được: B'NF = BNE (g.c.g) nên => NE = NF 3.TÌNH HUỐNG 3: Cần chú ý rằng trong bài toán gốc AB là đường kính của đường tròn nếu xem đây là GT HẸP, thì GT RỘNG hơn là xét AB như là 1 dây cung bất kỳ ta sẽ có 4 bài mới toán sau là sự tổng quát của bài toán 1.1 và bài 1.2 Bài 1.3: Cho tứ giác ABCD nội tiếp đường tròn tâm (O).Các đường chéo AC, BD cắtnhau tại N . Qua N vẽ đường thẳng vuông góc NO , đường thẳng này cắt các đường thẳng AD, BC tại E, F Chứng minh NE = NF Lời giải: (Hình 5) kẻ OQ vuông góc AD và OR vuông góc BC => Q,R là trung điểm của AD, BC. Chú ý rằng: DNA đồng dạng CNB nên suy ra DNQ đồng dạng CNR => gócDQN = gócCRN => gócNQO = gócNEO (1) các tứ giác EQON, FRNO nội tiếp nên: gócNQO = gócNEO và gócNRO = gócNFO (2) Từ (1) và (2) => gócNEO = gócNFO => EOF cân tại F => NE = NF 2.TÌNH HUỐNG 2: Với 1 thay đổi nhỏ trong GT ta có được bài toán 1.1 là 1 bài toán mạnh hơn. Bây giờ ta hãy để ý đến vị trí của điểm N là giao điểm 2 dây cung AC ; BD Để sáng tạo ra bài toán mới, ta thay GT N là giao điểm của AC; BD thành GT N là giao điểm của AD vàØ BC. Với GT mới này ta sẽ có bài toán sau: Bài1.2: Cho đường tròn tâm (O) đường kính AB. 2 dây cung AD , BC cắt nhau tại điểm N ở ngoài (O) Qua N kẻ đường vuông góc với NO, đường thẳng này cắt các đường thẳng BD, AC lần lượt tại E, F Chứng minh rằng : NE = NF QP F E N R Q F E N B' F E C D A O B N O O A D C B A D B C HƯỚNG KHAI THÁC THỨ 2:( Sáng tạo ra bài toán mới là hệ quả của bài toán gốc) Hình 8b Lời giải:(Hình 8b) Từ kết quả của bài toán 1.6 ta có: IE = IF và IA = IB => AE = FB và AF = BE (1) Tứ giác AMBP nội tiếp nên EM.EP = EA.EB (2) Tứ giác ANQB nội tiếp nên: FN.FQ = FB.FA (3) Từ (1) => EA.EB = FA.FB (4) Từ (2) ; (3) ;(4) => EM.EP = FN.FQ Bài 1.7: Cho đường tròn tâm (O). Dây cung AB I là trung điểm của AB, qua I vẽ các dây MN,PQ sao cho MP cắt AB tại E, NQ cắt AB tại F. Chứng minh: EM. EP = FN.FQ Lời giải:(Hình 8) Kẻ OL vuông góc PM; OK vuông góc QN khi đó ta có các tứ giác OIEL; OIFK nội tiếp => gócOLI = gócOEI và gócOKI = gócOFI (1) Từ sự đồng dạng của IMP đồng dạng IQN và L;K là trung điểm của PM; QN nên => ILM đồng dạng IKQ => gócILM = gócIKQ => gócOLI = gócOKI (2) Từ (1) và (2) => gócOEI gócOFI => EOF cân tai O (3) I là trung điểm AB nên OI vuông góc EF (4) Từ (3) và (4) => IE = IF NHẬN XÉT: Bằng những thay đổi trong GT của bài toán gốc ta đã sáng tạo thêm những bài toán mới ở 1 cung bậc cao hơn, tổng quát hơn. Đưa ra nhận xét này tôi muốn nêu lên 1 khẳng đ ... F; OTF'F là các tứ giác nội tiếp HƯỚNG KHAI THÁC THỨ 4 : sáng tạo ra các bài toán về tứ giác nội tiếp K I F E F' E' N N' K T F' E' F E N N' A O B O C D A D C B Hinh 16 Lời giải:CÁCH 1 (Hình 16) a.Chứng minh EE'; FF' AB đồng qui Gọi K là giao điểm của FF' và AB, ta chứng minh K, E; E' thẳng hàng Sử dụng định lý Menelauyt cho tam giác ABC; ADB; F'NE'; AN'C. *Với ABC và 3 điểm K; F; F' thẳng hàng ta có: KB KA . F'A F'C . FC FB =1 (1) *Với E'NF' và 3 điểm B ; C; N' thẳng hàng ta có: N'F' N'E' . BE' BN . CN CF' =1 (2) Sử dụng kết quả bài toán 5 thì: N'E' = N'F' nên từ (2) => BE' BN . CN CF' = 1 => BN CN . CF' BE' = 1 (3) *Với EN'F và 3 điểm B; N; D thẳng hàng ta có: DE DN' . NF NE . BN' BF = 1 (4) Sử dụng kết quả bài toán 1 thì: NE = NF nên từ (4) => DE DN' . BN' BF = 1 (5) *Với AN'C và 3 điểm B; N; D thẳng hàng ta có: DA DN' . BN' BC . NC NA = 1 (6) Từ sự đồng dạng của 2 tam giác AND và BNC ta suy ra: NA NB = ND NC = AD BC => AD BC . NB NA =1 (7) Từ (7) => AD BC . NB NA . NC NC = 1 (8) Từ (6) và (8) => N'B N'D = NB NC (9) Từ (3);(5) và (9) suy ra: DE BF = CF' BE' (10) TỪ (10) => ( BF DE )2 = ( BE' CF' )2 (11) Từ kết quả bài toán 7b ta có: ED.EA = FC.FB (12) F'C.F'A = E'D.E'B (13) Từ (12) => FB DE = EA FC (14) Từ (13) => E'B F'C = F'A E'D (15) Từ (11);(14);(15) sy ra: FB DE . EA FC = E'B F'C . F'A E'D (16) Từ (16) => EA ED E'D E'B = F'A F'C FC FB (17) Nhân 2 vế của (17) với KB KA và từ (1) ta có: KB KA EA ED E'D E'B = KB KA F'A F'C FC FB = 1 (18) Hệ thức (18) cùng với định lý đảo Menelauyt ta suy ra 3 điểm K; E; E' thẳng hàng từ đó suy ra 3 đưừng thẳng EE'; FF' AB đồng qui tại K K I F E F' E' N N' O A D C B yx t d y x d y x' d HƯỚNG MỞ RỘNG THỨ 3: Lật ngược vấn đề của bài toán gốc ta sẽ có bài toán chứng minh đường thẳng đi qua điểm cố định sau: Bài 2.3: Cho góc xOy. Đường thẳng d thay đổi cắt các tia Ox, Oy tại M, N. Biết rằng giá trị biểu thức 1 OM + 1 ON có giá trị không đổi khi d thay đổi. Chứng minh d luôn đi qua điểm cố định. Hình 19 HƯỚNG MỞ RỘNG THỨ 2 : Thay đổi vị trí của I bằng cách lấy I là 1 điểm bất kỳ nằm ngoài góc xOy Bài 2.2: Cho 2 đường thẳng xx' và yy' cắt nhau tại O điểm I cố định nằm ngoài góc xOy. Đường thẳng d thay đổi luôn qua I cắt các tia Ox, Oy tại M, N. Qua I vẽ các đường thẳng song song với xx' và yy' chúng cắt xx', yy' tại D, E Chứng minh rằng biểu thức: OD OM - OE ON có giá trị không đổi Lời giải: (Hình 19) Ta có: OD OM - OE ON = IE OM - ID ON = IN NM - IM NM = -1 => OD OM - OE ON = -1 Hình 18 Từ cách giả của bài toán trên ta có các hướng mở rông bài toán như sau: HƯỚNG MỞ RỘNG THỨ 1: Thay đổi vị trí của điểm I bằng cách lấy I là 1 điểm bất kỳ nằm trong góc xOy ta sẽ có bài toán sau: Bài toán 2.1: Cho góc xOy và điểm I cố định nằm ở miền trong góc xOy. Đường thẳng d thay đổi luôn qua I cắt Ox , Oy tại M, N. Qua I vẽ các đường thẳng song song với Ox , Oy, chúng cắt Ox, Oy tại D, E. Chứng minh rằng biểu thức: OD OM + OE ON có giá trị không đổi LỜI GIẢI: (Hình 18) Bạn đọc hãy giải bài toán như cách giải bài toán 2. Kết quả là: OD OM + OE ON = 1 => (đpcm) Hình 17 Lời giải: ( Hình 17) Qua I vẽ các đường thẳng song song với Ox , Oy các đường thẳng này cắt Ox, Oy tại D, E. Khi đó các điểm D, E cố định và OEID là hình thoi. Ta đặt OD = a không đổi. Ta có: EI OM + ID ON = NI NM + MI NM = NI +MI NM = 1 => a OM + a ON = 1 => 1 OM + 1 ON = 1 a = const BÀI TOÁN XUẤT PHÁT 2: Cho góc xOy và 1 điểm I cố định trên tia phân giác Ot . Đường thẳng d thay đổi luôn đi qua I, cắt các tia Ox, Oy tại M, N. Chứng minh rằng giá trị của biểu thức : 1 OM + 1 ON có giá trị không thay đổi khi d thay đổi nhưng luôn qua I D E M N O D E M E D M O O I y' x I I N N xy d d Hình 21 HƯỚNG MỞ RỘNG THỨ 4: Thay giả thiết góc xOy bằng tam giác ABC và điểm cố định I nằm trong tam giác ABC ta có bài toán sau: Bài 2.5 Cho tam giác ABC. I là giao điểm 3 đường phân giác trong, đường thẳng d thay đổi luôn qua I cắt các cạnh AB, AC và tia CB tại M, N, P. Chứng minh giá trị của biểu thức: AB AM.BM + AC AN.CN - BC BP.CP có giá trị không đổi khi d thay đổi và luôn qua I Lời giải: (Hình 21) Qua I vẽ các đường thẳng song song với các cạnh của tam giác ABC chúng cắt AB,BC,CA tại G, F, E, S, R, K. Khi đó ta có AGIK, BEIF, CRIS là các hình thoi Ta có: gócBMP = gócFMI > gócMBI = gócIBE = gócBIF > gócFIM = gócBPM Suy ra: BP > BM Đặt AG = a; BE = b; CR = c áp dụng kết quả bàitoán gốc và các bài 2.2 và 2.3 ta có: 1 AM + 1 AN = 1 a ; 1 CN + 1 CP = 1 b ; 1 BM - 1 BP = 1 c Cộng từng vế các đẳng thức này ta có: 1 AM + 1 AN + 1 CN + 1 CP + 1 BM - 1 BP = 1 a + 1 b + 1 c => ( 1 AM + 1 BM )+( 1 AN + 1 CN )+( 1 CP - 1 BP ) = 1 a + 1 b + 1 c => AB AM.BM + AC AN.CN - BC BP.CP = 1 a + 1 b + 1 c = Const Lời giải: (Hình 20) Tương tự cách giải bài 2.3 ta đặt 1 OM + k ON = 1 a (1) (a > 0 cho trước) Lấy D trên Ox sao cho OD = a thì OD < OM . Qua D kẻ song song với Oy cát MN tại I. Lấy E trên Oy sao cho OE = ID khi đó OEID là hình bình hành áp dụng kết quả bài 2.1 ta có: OD OM + OE ON = 1 => 1 OM + OE OD.ON = 1 OD = 1 a (2) Từ (1) và (2) => 1 OM + k ON = 1 OM + OE OD.ON => k = OE OD => OE = K.OD (3) Hệ thức (3) chứng tỏ E cố định. Hình bình hanh OEID có E, O, D cố định nên I cũng là điểm cố định Sâu hơn 1 chút từ bài 2.3 ta có thể đưa ra bài toán tông quát hơn như sau: Bài 2.4 Cho góc xOy. 1 đường thẳng d thay đổi luôn cắt Ox, Oy tại M, N. Gỉa sử tồn tại số thực k sao cho 1 OM + k ON có giá trị không đổi. Chứng minh rằng d luôn đi qua 1 điểm cố định. Hình 20 Lời giải:(Hình 20) Gỉa sử: 1 OM + 1 ON = 1 a (1) (a > 0 cho trước) Lấy D trên Ox sao cho OD = a thì OD < OM . Qua D kẻ song song với Oy cát MN tại I. Lấy E trên Oy sao cho OE = ID khi đó OEID là hình bình hành áp dụng kết quả bài 2.1 ta có: OD OM + OE ON = 1 => 1 OM + OE OD.ON = 1 OD = 1 a (2) Từ (1) và (2) => 1 OM + 1 ON = 1 OM + OE OD.ON => OE OD = 1 => OE = OD (3) Hệ thức (3) cùng với chú ý D cố định ta suy ra E cố định => I cố định ( vì OEID là hình bình hành) vậy đường thẳng d luôn đi qua điểm cố định I S R K G F E N M I E I N M O A B C D P dHình 22 Bài 2.7 Cho hình bình hành ABCD, đường thẳng d thay đổi cắt các đường thẳng AB, AD, AC tai M, N, P. Chứng minh rằng: AB AM + AD AN = AC AP HƯỚNG MỞ RỘNG THỨ 5: Đặc biệt hoá bài 2.5 bằng cách cho tam giác ABC là tam giác đều có cạnh bằng a ta sẽ có bài toán mới sau đây Bài 2.6 Cho tam giác ABC đều cạnh bằng 3. I là giao điểm 3 đường phân giác, đường thẳng d thay đổi luôn qua I cắt AB, AC, và tia CB tại M, N, P a.Chứng minh: 1 AM.BM + 1 AN.CN - 1 BP.CP = 1 b.Chứng minh: 1 IM2 + 1 IN2 + 1 IP2 = 2 * Bạn đọc tự giải theo cách giải bài 2.5 F G M P N A B D C KẾT LUẬN : Qua phần nội dung đã trình bày ở trên ta thấy việc khai thác các bài tập học sinh sẽ : -Được củng cố 1 hệ thống kiến thức cơ bản và nâng cao -Được phát triển tư duy, kỹ năng sáng tạo -cảm thấy rất hứng thú trong quá trình học tập -Tự tin hơn khi phải đối mặt với những bài toán khó, những bài toán lạ -Không xem thường những bài toán cơ bản bởi vì các bài toán đơn giản là bắt đầu của sự sáng tạo -Có thái độ tích cực hơn khi học tập toán, say sưa tìm tòi khám phá những góc khuất trong mỗi bài toán để sáng tạo nên bài tập mới -Kiến thức toán được nâng cao BÀI HỌC RÚT RA: *Đổi mới dạy học là 1 quá trình, song mỗi giáo viên cần có ý thức tìm tòi những phương pháp dạy học phù hợp với từng loại bài tập và từng đôi tượng HS theo phương pháp dạy học mới là lấy HS làm trung tâm, tích cực hoá các hoạt động của HS trong quá trình học tập *Học sinh THCS còn ở độ tuổi thiếu niên, khả năng tư duy, khái quát còn hạn chế. Do đó khi đứng trước các bài toán khó việc tìm ra lời giải đã khó chứ chưa nói gì đến việc sáng tạo. Vì vậy người giáo viên cần có sự đầu tư để có phương pháp dạy thích hợp để mỗi HS đều có thể tự tin trong học tập và sáng tạo *Chuyên đề""Rèn luyện năng lực tư duy và khả năng sáng tạo thông qua việc khai thác kết quả bài toán gốc để sáng tạo ra các bài toán mới"" là một ví dụ nhỏ minh hoạ cho 1 ý tương không nhỏ theo một nghĩa nào đó.Qua chuyên đề này tôi mong muốn gửi đến đồng nghiệp 1 chút kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã thực hiện cùng với những HS khá giỏi toán của trường THCS Tôn Quang Phiệt trong năm học 2007 -2008 *Cuối cùng xin tóm lại điều quan trọnh nhất: ""Trong cuộc sống cũng như trong dạy học toán không có cái tầm thường và cũng không có bài toán nào tầm thường cả, trước mỗi bài toán hãy dành thời gian nắm bắt các yếu tố vàø định hướng trong suy nghĩ, chứ đừng cảm nhận quá nhiều"" Thiết nghĩ đó là 1 kinh nghiệm dạy học môn toán./. PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ BÀI HỌC RÚT RA B. ĐỀ NGHỊ: Thay mặt hội đồng xét SKKN A. ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI PHẦN ĐÁNH GIÁ NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG XÉT SKKN CẤP TRƯỜNG PHẦN ĐÁNH GIÁ NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG XÉT SKKN CẤP HUYỆN A. ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI B. ĐỀ NGHỊ: Thay mặt hội đồng xét SKKN
Tài liệu đính kèm: