A. Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
Bác Hồ đã khẳng định: Không có thầy giáo thì không có giáo dục. Nhiệm vụ của thầy cô giáo là rất quan trọng và rất vẻ vang. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã nói: Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý, nghề sáng tạo nhất trong các nghề sáng tạo. Các thầy cô giáo không những dạy chữ mà còn dạy người, họ cứ như cây thông trên sườn núi, cây quế giữa rừng sâu thầm lặng toả hương dâng hiến trí tuệ, sức lực cho đời. Làm nghề dạy học, ai cũng muốn “sản phẩm” của mình đạt chất lượng cao, ai cũng muốn có học sinh giỏi, đặc biệt là với những người tâm huyết nghề nghiệp, họ luôn dồn hết sức lực và trí tuệ của mình để đạt được những mong muốn đó. Tuy nhiên, muốn có được như thế thì đòi hỏi sự nỗ lực từ nhiều phía (kể cả người học, người dạy, và phụ huynh) chứ không chỉ phía người dạy, do đó mong muốn chính đáng của người thầy giáo không chỉ dựa vào sự nỗ lực của chủ quan mà thành hiện thực được (và giáo viên văn cũng không phải là ngoại lệ, đó là chưa nói đến để có được học sinh giỏi văn còn có nhiều cái khó hơn các môn khác).
Thực tế cho thấy, hiện nay số học sinh giỏi văn có chiều hướng ngày càng giảm đi, mà chất lượng của những em được công nhận cũng không cao, số bài viết giàu “chất văn” ngày càng hiếm mà nguyên nhân một phần là do phụ huynh không muốn cho con đi học môn văn vì sau này ít có cơ hội chọn nghề; học sinh thì không có hứng thú vì không tìm thấy sự hấp dẫn ở môn văn, hơn nữa học môn văn thường điểm không cao (vì giáo viên chỉ hay cho thang điểm 5-6-7, hiếm khi được điểm 8 điểm 9 cho dù học sinh đã có những cố gắng). Còn người dạy thì cứng nhắc, rập khuôn, làm hạn chế sức sáng tạo của học sinh, (vì em nào viết văn phải theo như đáp án mới cao điểm). Vì thế tôi muốn cùng các đồng nghiệp trao đổi một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi văn lớp 9.
A. Phần mở đầu I. Lý do chọn đề tài Bác Hồ đã khẳng định: Không có thầy giáo thì không có giáo dục. Nhiệm vụ của thầy cô giáo là rất quan trọng và rất vẻ vang. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã nói: Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý, nghề sáng tạo nhất trong các nghề sáng tạo. Các thầy cô giáo không những dạy chữ mà còn dạy người, họ cứ như cây thông trên sườn núi, cây quế giữa rừng sâu thầm lặng toả hương dâng hiến trí tuệ, sức lực cho đời. Làm nghề dạy học, ai cũng muốn “sản phẩm” của mình đạt chất lượng cao, ai cũng muốn có học sinh giỏi, đặc biệt là với những người tâm huyết nghề nghiệp, họ luôn dồn hết sức lực và trí tuệ của mình để đạt được những mong muốn đó. Tuy nhiên, muốn có được như thế thì đòi hỏi sự nỗ lực từ nhiều phía (kể cả người học, người dạy, và phụ huynh) chứ không chỉ phía người dạy, do đó mong muốn chính đáng của người thầy giáo không chỉ dựa vào sự nỗ lực của chủ quan mà thành hiện thực được (và giáo viên văn cũng không phải là ngoại lệ, đó là chưa nói đến để có được học sinh giỏi văn còn có nhiều cái khó hơn các môn khác). Thực tế cho thấy, hiện nay số học sinh giỏi văn có chiều hướng ngày càng giảm đi, mà chất lượng của những em được công nhận cũng không cao, số bài viết giàu “chất văn” ngày càng hiếm mà nguyên nhân một phần là do phụ huynh không muốn cho con đi học môn văn vì sau này ít có cơ hội chọn nghề; học sinh thì không có hứng thú vì không tìm thấy sự hấp dẫn ở môn văn, hơn nữa học môn văn thường điểm không cao (vì giáo viên chỉ hay cho thang điểm 5-6-7, hiếm khi được điểm 8 điểm 9 cho dù học sinh đã có những cố gắng). Còn người dạy thì cứng nhắc, rập khuôn, làm hạn chế sức sáng tạo của học sinh, (vì em nào viết văn phải theo như đáp án mới cao điểm). Vì thế tôi muốn cùng các đồng nghiệp trao đổi một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi văn lớp 9. II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu. 1. Mục đích nghiên cứu: Mục đích tôi viết đề tài này nhằm cùng các đồng nghiệm chia sẻ những kinh nghiệm giảng dạy bồi dưỡng học sinh giỏi, đồng thời tìm ra những biện pháp thiết thực, khả thi để bồi dưỡng có nhiều học sinh giỏi môn Ngữ văn hơn. Mục đích cuối cùng là qua đề tài này, nó sẽ là tài liệu có hệ thống để tôi tiếp tục làm tốt công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, ươm mầm cho những tài năng trẻ. 2. Phương pháp nghiên cứu: -Trao ®æi víi ®ång nghiÖp. -LËp phiÕu ®iÒu tra ®èi víi häc sinh. -Ph¬ng ph¸p so s¸nh ®èi chiÕu. III. Giới hạn của đề tài. Do năm nay, tôi chỉ được phân công dạy lớp 9, bồi dưỡng học sinh khối lớp 8 và bồi dưỡng học sinh Văn hay chữ tốt, nên tôi chỉ trình bày những kinh nghiệm về bồi dưỡng học sinh giỏi thuộc lĩnh vực của bậc học THCS. IV. Kế hoạch thực hiện +Chọn đề tài. + Viết đề cương chi tiết: + Tiến hành thực hiện đề tài: + Viết bản thảo SKKN theo đề cương đã chuẩn bị. + Hòan chỉnh bản SKKN, đánh máy, in ấn. B. Phần nội dung I. Cơ sở lý luận: Luật bang Georgia (Hoa Kỳ) định nghĩa học sinh giỏi như sau: “Học sinh giỏi là học sinh chứng minh được trí tuệ ở trình độ cao và có khả năng sáng tạo, thể hiện một động cơ học tập mãnh liệt và đạt xuất sắc trong lĩnh vực lý thuyết, khoa học; người cần một sự giáo dục đặc biệt và sự phục vụ đặc biệt để đạt được trình độ tương ứng với năng lực của người đó” - (Georgia Law). Cơ quan giáo dục Hoa Kỳ miêu tả khái niệm “học sinh giỏi” như sau: “ Đó là những học sinh có khả năng thể hiện xuất sắc hoặc năng lực nổi trội trong các lĩnh vực trí tuệ, sự sáng tạo, khả năng lãnh đạo, nghệ thuật, hoặc các lĩnh vực lí thuyết chuyên biệt. Những học sinh này thể hiện tài năng đặc biệt của mình từ tất cả các bình diện xã hội, văn hóa và kinh tế”. Nhiều nước quan niệm: Học sinh giỏi là những đứa trẻ có năng lực trong các lĩnh vực trí tuệ, sáng tạo, nghệ thuật và năng lực lãnh đạo hoặc lĩnh vực lí thuyết. Những học sinh này cần có sự phục vụ và những hoạt động không theo những điều kiện thông thường của nhà trường nhằm phát triển đầy đủ các năng lực vừa nêu trên. Có thể nói, hầu như tất cả các nước đều coi trọng vấn đề đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi trong chiến lược phát triển chương trình giáo dục phổ thông. Nhiều nước ghi riêng thành một mục dành cho học sinh giỏi, một số nước coi đó là một dạng của giáo dục đặc biệt hoặc chương trình đặc biệt. Trong văn kiện đại hội đảng lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam”. Bồi dưỡng nhân tài là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân nói chung, Bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục nói riêng. II. Cơ sở thực tiễn. Có thể nói công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và giỏi môn văn nói riêng là việc làm rất khó. Có khi, có giáo viên giỏi nhưng không có “hồ” mà “gột”, ngược lại khi có “bột” nhưng không phải ai cũng dễ dàng “gột nên hồ”. Cho nên để có hai yếu tố đó đã khó, và làm cho hai yếu tố đó giao thoa với nhau lại càng khó hơn (cứ giả sử, người dạy đã có tâm huyết, đủ tri thức để giảng dạy nhưng người học không cùng đồng hành thì sẽ không có kết quả như mong muốn. Có thể coi đó là hai yếu tố cần và đủ để làm nên thành công, nhưng thiết nghĩ yếu tố : năng lực chuyên môn và trách nhiệm của người thầy vẫn là đòi hỏi trước tiên và cấp bách hơn, vì khi người thầy giỏi, biết cảm thụ văn chương, biết truyền cái hay của tác phẩm đến cho người học thì sẽ giúp cho tâm hồn các em được thanh lọc, được bừng tỉnh, dần dần các em sẽ tìm thấy hứng thú trong các giờ văn, từ đó mà yêu thích môn văn...Muốn vậy, người thầy phải nêu cao vai trò “tự học, sáng tạo” để tích luỹ kiến thức cần thiết để vừa có kiến thức giảng dạy vừa đáp ứng với nhu cầu của xã hội. Nhưng hiện nay, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan , việc tìm học sinh có năng khiếu để bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn là công việc vô cùng khó khăn. Trước hết, vẫn có học sinh có năng khiếu về văn học, nhưng những học sinh này đều giỏi đều các môn học. Các em không chấp nhận đi học bồi dưỡng môn Văn vì Môn Ngữ văn trong nền kinh tế thị trường có “ đầu ra” khá hẹp so với các bộ môn khoa học tự nhiên. Điều kiện và cơ hội xin việc làm rất khó đối với ngành Ngữ Văn và các ngành học có bộ môn Ngữ Văn, nên phụ huynh các em không muốn con em mình học chuyên sâu về bộ môn này. Vấn đề thứ hai là thi học sinh giỏi môn Ngữ văn khó đậu hơn các môn khoa học khác. Vấn đề tiếp theo là vẫn có những em thích học môn Văn nhưng lại không có kiến thức và kỹ năng viết văn vì các nguyên nhân: Đối với người dạy, họ nhất cử nhất động đều dạy theo một “ lộ trình” định sẵn , nhằm cung cấp kiến thức cơ bản ( kiến thức chuẩn ) cho học sinh . Một số không nhỏ giáo viên dạy thiếu tâm hồn , thiếu những cảm xúc thực sự cho giờ dạy. Đối với người học, giờ học hầu như thụ động, chỉ biết ghi chép theo lời, ý giáo viên, không chủ động trong việc tiếp nhận kiến thức, Học sinh hầu như không chủ động đặt ra câu hỏi để giáo viên và cả lớp cùng giải quyết . Chưa đáp ứng được các mức độ tiếp nhận kiến thức(khi trả bài , mới thể hiện mức độ “ tái hiện” , it có “ tái tạo” và “ sáng tạo” ) Bên cạnh đó , chất lượng học sinh giỏi hiện nay chưa cao, chưa thực sự có “ học sinh giỏi” đúng nghĩa. ( Có năng lực cảm thụ văn học tốt ; có những suy nghĩ sâu sắc khi làm bài; có bài đăng trên các báo , có những công trình nghiên cứu phù hợp lứa tuổi ) . III. Thực trạng và những mâu thuẫn Hiện nay, phần lớn học sinh không thích học văn nên thường học qua loa, đối phó, không nắm được các giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của các tác phẩm, không nhớ tác phẩm đó của ai, hoàn cảnh sáng tác như thế nào? thậm chí nếu văn tác phẩm là thơ thì cũng không thèm học thuộc (cho dù những bài thơ thật hay). Những nét khái quát của tác phẩm không nắm được thì không có gì để viết, dẫn đến bài viết nghèo ý; văn viết khô khan, trần trụi; nghĩ sao viết vậy chứ không biết gọt dũa, không biết dùng các biện pháp tu từ thích hợp để cho bài viết sinh động.Thực trạng này đã được nhiều người tâm huyết với nghề trao đổi trên diễn đàn của báo Giáo dục & Thời đại, và lý do đưa ra cũng khá phong phú, đa dạng, song tập trung chủ yếu vào các nguyên nhân sau: 2/ Nguyên nhân -Người dạy văn chưa truyền được cái hay của tác phẩm văn chương sang cho người học (kể cả cách cảm thụ cũng như kỹ năng viết những câu văn giàu hình tượng) -Chưa trang bị những kiến thức cơ bản về các thể loại văn học cho học sinh nên phần lớn học sinh hiểu trong văn học cũng như ngoài đời, do đó dẫn đến tình trạng khi làm văn “thấy sao viết vậy” ( nhất là trong văn miêu tả và văn tường thuật) mà thiếu đi sự chọn lọc, làm cho bài văn trở nên trần trụi, sa vào “chủ nghĩa tự nhiên”. -Chưa phân biệt được ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viêt nên khi viết văn vẫn dùng từ như ngôn ngữ nói. -Một số giáo viên chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm khi chấm, trả bài nên học sinh không nhận ra thiếu sót để sửa chữa cho những bài sau (thậm chí đọc bài hờì hợt, không phát hiện ra những tứ văn mới, những sáng tạo (dù nhỏ) của học sinh, do đó không có sự khuyến khích kịp thời (và đó cũng là lý do làm thui chột lòng ham thích học văn của các em). Tất cả những lý do trên đây đã “góp phần không nhỏ” vào việc làm cho học sinh thích học văn ngày càng ít đi, vì thế mà trong một khoá học có hàng trăm em, nhưng để chọn 3-5 em đi bồi dưỡng học sinh giỏi văn thì đúng là “nhân tài như lá mùa thu” (đó là chưa kể có em giỏi văn nhưng lại muốn đi học bồi dưỡng kiến thức cho những môn “thời thượng” hơn) cho nên để có học sinh giỏi văn thật khó lắm thay! Từ thực tế trên, qua những việc đã làm của bản thân, tôi muốn được cùng các đồng nghiệp chia sẻ, trao đổi để ngày càng có nhiều học sinh “chịu” học văn hơn, do đó , tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp mà bản thân tôi đã làm trong thời gian qua như sau: IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề 1. Đối với giáo viên: Trình tự các bước từ khâu chọn học sinh đi bồi dưỡng đến việc hướng dẫn cách cảm thụ và rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết văn như sau: a- Bước 1: Phát hiện những học sinh có khả năng cảm thụ văn học: Qua một thời gian dạy, sau những bài kiểm tra và bài viết, em nào có cách diễn đạt linh hoạt, không viết lại những nội dung mà giáo viên đã cho ghi khi học, không theo khuôn mẫu nào...thì giáo viên nên khuyến khích, động viên (có thể cho điểm cao, mặc dù bài viết chưa xứng đáng như thế) để các em mạnh dạn viết theo cách hiểu, cách cảm của mình, có như thế mới phát huy được tính sáng tạo trong học sinh. Mà muốn cho học sinh biết cảm thụ thì trước hết người dạy phải đem được cái hay của văn chương đến cho người học, giúp cho học sinh kỹ năng cảm thụ cái hay cái đẹp của tác phẩm qua những biện pháp tu t ... u không thể thiếu. + Công việc 3:: Cho học sinh tiếp cận với những bài thơ, đoạn thơ hay: Mục đích của việc này là tạo hứng thú và niềm đam mê học văn cho các em ( giáo viên nên phân tích và chỉ cho học sinh thấy cái hay của những bài đó). Đặt ra cho học sinh câu hỏi: Bài thơ hay là do đâu?, những hình ảnh, những câu từ nào đã góp phần làm nổi bật cái hay ? Nhờ biện pháp tu từ nào mà họ làm cho ta thấy được cái hay của bài thơ, đoạn thơ đó...v.v. Muốn thế, khi tiếp cận đoạn thơ, ta hãy chú ý đến : màu sắc, hình khối, đường nét, âm thanh mà tác giả đã sử dụng. Gọi tên được các biện pháp tu từ và thấy được tác dụng của biện pháp tu từ đó, đồng thời chú ý đến nhịp thơ: cách ngắt nghỉ, nhịp thơ dài hay ngắn; cách dung các từ láy (từ láy tượng hình hay tượng thanh)...v.v. Ví dụ: Ta sẽ có cảm giác một không gian bát ngát,trải ra mênh mông trước mắt người đọc bởi những thanh bằng, cùng với vần “an” trong hai câu thơ của Tố Hữu: “Em ơi! Ba Lan mùa tuyết tan Đường bạch dương sương trắng nắng tràn” Nhưng lại có cảm giác éo le trắc trở của số phận một con người cũng như cảm giác gập ghềnh, quanh co khúc khuỷu, nhiều ghềnh thác của con đường đời khi ta bắt gặp những câu thơ: “tài cao phận thấp chí khí uất” hoặc “ Vó câu khấp khểnh ngựa xe gập ghềnh”. Hoặc người đọc sẽ có cảm giác tự tin, thong dong khi “ta đi giữa ban ngày/Trên đường cái ung dung ta bước” đồng thời cũng thấy được khí thế cuồn cuộn như thác đổ triêu dâng của bộ đội ta qua nhịp thơ dồn dập: “Ta đi tới trên đường ta bước tiếp/ Rắn như thép, vững như đồng/ đội ngũ ta trùng trùng điệp điệp/ cao như núi dài như sông/ chí ta lớn như biển đông trước mặt” như ở trong bài Ta đi tới của Tố Hữu Thử đọc khổ đầu của bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải: Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng. Ta như thấy trước mắt ta là một bức tranh của mùa xuân xứ Huế với hoa nở, chim hót, sông xanh, trời rộng cùng với những “giọt âm thanh long lanh” của con chim chiền chiện đang chao liệng trên bầu trời thanh bình, yên ả. Vẻ đẹp nao lòng đó chính là lời mời gọi tha thiết của những người con xứ Huế dành cho những ai chưa một đặt chân đến mảnh đất thơ mộng này. Ngoài ra, giáo viên cần gợi cho học sinh biết liên tưởng: nếu có óc liên tưởng sẽ dễ dàng giúp ta biết “huy động” những kiến thức mà ta đã có để vận dụng vào việc phân tích & chứng minh cho vấn đề mình vừa phân tích Ví dụ sau khi đã học “ Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng thì chỉ cần đọc “ Những đứa trẻ” của Mác Xim Goor Ki là chúng ta nghĩ ngay đến điểm chung của hai nhân vật- hai con người có số phận giống nhau khi tuổi thơ, rồi lại tương đồng nhau khi trưởng thành ( Là những nhà văn lớn, có nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà) Hoặc khi học đến bài thơ “Khi con tu hú” của Tố Hữu thì ta sẽ nghĩ ngay đến chùm thơ trong tù ( của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hồ Chí Minh, Sóng Hồng). Đặc biệt với hình ảnh “Ta nghe hè dậy bên lòng/ Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi/ Ngột làm sao chết uất thôi/ Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”, thì ta lại nghĩ đến hình ảnh “Đốt cho tiêu kiếp tù đày/ Cho bừng lửa hận, biết tay anh hùng/ Có về không, có về không?/ Bước mau, mau bước non sông đợi chờ” của Sóng Hồng. Cũng nhờ sự liên tưởng, giúp ta thấy được điểm chung của những người tù cách mạng ở đây là muốn được ra tù để trở lại hoạt động cách mạng (khác với việc mong muốn được ra tù của những người bình thường khác (vì “Nhất nhật ngục trung-thiên thu tại ngoại”), mặc dù họ đã biết “ Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu/ Dấn thân vô là phải chịu tù đày/ Là gươm kề tận cổ, súng kề tai/ Là thân sống chỉ coi còn một nửa” nhưng họ vẫn sẵn sàng đi theo cách mạng và nếu phải hy sinh thì họ vẫn:“Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng/ Lòng khoẻ nhẹ anh dân quê sung sướng/ Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành/ Và trong mơ thơm ngát lúa đồng xanh/ Vui nhẹ đến trên môi cười hy vọng” (Tố Hữu – Trăng trối) Tóm lại: Sự độc đáo của liên tưởng sẽ giúp nhiều cho ta trong việc khơi gợi trí nhớ; vì thế, nếu có óc liên tưởng thì bài viết ý sẽ phong phú, minh chứng sẽ xác đáng, diễn đạt sẽ linh hoạt, cho nên giúp ích rất nhiều cho việc viết văn. Nói chung, công việc bồi dưỡng học sinh giỏi không thể có một giáo án nhất nhất được vì những tình huống xảy ra trong từng buổi học sẽ khác nhau. Nghĩa là người dạy phải linh hoạt, tuỳ từng em, tuỳ từng buổi học phát sinh ra tình huống nào để mà chọn dạy cái gì, dạy như thế nào. .2 Đối với học sinh : - Xác định hướng đi cho mình khi quyết định đi sâu vào môn Ngữ văn với sự hướng dẫn , khích lệ của giáo viên , của gia đình - Đọc sách , tài liệu từ nhiều nguồn cung cấp và tự viết những suy nghĩ , cảm nhận về một bài thơ , một đoạn văn , một nhân vật theo yêu cầu của giáo viên . - Một khi học sinh say mê thì việc đọc sách , viết bài là do sự thôi thúc ở bên trong . Công việc này có tác dụng “ tập thể dục” cho bộ não , tránh được sự chai lỳ trong cảm xúc khi tiếp cận tác phẩm văn học . - Tham gia tích cực các “Câu lạc bộ văn học”, các bút nhóm sáng tác vừa để thử sức , vừa để rèn luyện cách viết . - Học sinh phải rèn luyện đức tính nhẫn nhại , kiên trì , chịu khó ; có ý thức chọn lọc tích lũy kiến thức . Tóm lại : + Muốn học tốt bộ môn Ngữ văn , cần có các yếu tố : có năng khiếu văn chương , có vốn sống và có vốn văn học . + Vốn sống , vốn văn học có được nhờ đọc sách . Do đó , cần rèn luyện thói quen đọc sách , đọc có suy nghĩ , có sự đồng sáng tạo . Mặt khác , giữa người dạy và người học cần tạo không khí học tập , trao đổi thân thiện , cởi mở , khơi gợi vấn đề để thầy trò cùng “ giải mã , đưa ra cách hiểu sâu sắc nhất”. V. Hiệu quả áp dụng Có thể nói dạy học cũng là một nghệ thuật, vì thế mỗi người sẽ có một “con đường đi” khác nhau nhưng cái đích để đến thì đều giống nhau, đó là “thước đo” từ kết quả của các kỳ thi học sinh giỏi các cấp do Huyện, Tỉnh tổ chức. Tuy nhiên kết quả đó chưa phải là tất cả nhưng cũng là một minh chứng để có cơ sở đánh giá công sức của người dạy và người học (và tất nhiên ta cũng không loại trừ có những trường hợp là nhờ may mắn). Riêng bản thân tôi, từ thực tế trong công tác giảng dạy cũng như công tác bồi dưỡng học sinh giỏi mà tôi đã trình bày ở trên; hằng năm, nếu có học sinh “chịu” đồng hành với mình thì đều gặt hái được những thành quả đáng khích lệ :Năm 2009-2010 có học sinh giỏi vòng huyện, Năm 2010-2011 có học sinh vòng tỉnh; Năm 2011-2012 có học sinh giỏi Văn hay chữ tốt vòng huyện, đi thi vòng tỉnh, vòng khu vực. - Qua mỗi kỳ thi, khi mà các em đạt giải thì trong mỗi giáo viên niềm vui cũng nhân lên gấp bội, nhờ thế mà mình càng tận tụy với nghề hơn. Ngoài ra, những em chưa có may mắn để đạt giải thì cũng sẽ có những trưởng thành nhất định, kết quả của môn học khá hẳn lên, đặc biệt là góp phần làm giàu về các mặt từ kiến thức đến kỹ năng để giúp các em thêm hành trang vào đời cũng như làm bệ phóng để học lên các lớp trên. C. Kết luận I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác Có thể nói công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và giỏi môn văn nói riêng là việc làm rất khó. Dù khó nhưng công việc bồi dưỡng học sinh giỏi rất cần cho việc nâng cao chất lượng giáo dục và giúp cho những em có năng khiếu về văn chương phát huy hơn nữa tài năng của minh để cống hiến, để phụ vụ cho sự phát triển của đất nước. Đối với đề tài, nó sẽ là tài liệu có hệ thống để tôi tiếp tục làm tốt công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, ươm mầm cho những tài năng trẻ sau này. Trên đây là một chút kinh nghiệm đúc rút từ thực tiễn của bản thân, xin được mạo muội chia sẻ cùng đồng nghiệp để cùng nhau trao đổi nhằm đạt được hiệu quả cao hơn trong lĩnh vực đầy khó khăn này./. II. Khả năng áp dụng: Đề tài này tôi đã áp dung cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ Văn của nhà trường thấy có kết quả như đã trình bày trên. Đề tài này, tôi đã cho các đồng nghiệp khác trong tổ thảo luận, nhận xét và cùng tôi thực hiện. Nếu đề tài này được công nhận, tôi hy vọng nó sẽ là một ý kiến nho nhỏ cho các đồng nghiệp khác tham khảo và học tập điều gì đó trong đề tài này nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn hơn. III. Bài học kinh nghiệm, hướng phát triển. Qua tìm hiểu đề tài này, Tôi nhận thấy việc bồi dưỡng học sinh giỏi văn không có một phương pháp nào chung, một giáo án cụ thể nào. Nó tùy thuộc vào từng đối tượng mà ta có một phương pháp cụ thể. Tuy nhiên, kết quả việc bồi dưỡng này là gi? Là kết quả thành tích của trường, của ngành hay sao? Chất xám mà giáo viên làm ra sao này sẽ được sử dụng như thế nào? Những em học giỏi bộ môn văn có điều kiện tiếp tục học chuyên sâu môn văn nữa hay không? Tôi nghĩ rằng, sau các đề tài bồi dưỡng học sinh giỏi này sẽ có những đề tài của cấp quản lý về việc sử dụng, phát triển những em học sinh giỏi cấp THCS một cách căn cơ và khoa học hơn. Đừng để các em học sinh giỏi này chỉ như những đóa hoa rực rỡ màu sắc một thời rồi sẽ héo tàn theo sự khắc nghiệt của thời gian. IV. Đề xuất, kiến nghị: - Môn Ngữ văn là môn ngoài việc dạy cho học sinh về kiến thức về văn chương mà còn rèn luyện kỹ năng hành văn và khả năng cảm thụ văn chương, nên đào tạo phát hiện một em có năng khiếu là rất khó. Thường các em hội tụ đủ các điều kiện này thường các em giỏi điều các môn. Tôi đề xuất với BGH là nên ưu tiên bộ môn Ngữ văn trong việc lựa chọn học sinh để bồi dưỡng học sinh giỏi. - Việc bồi dưỡng học sinh giỏi ở các trường thường là việc mạnh ai nấy làm, chưa có một định hướng rõ ràng. Tôi kiến nghị với Phòng giáo dục và đào tạo nên có một chuẩn về kiến thức và kỹ năng của học sinh giỏi để cho học sinh và giáo viên bồi dưỡng phấn đấu đạt được, tránh tình trạng may rủi trong thi cử. Trên đây là những kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy, bồi dưỡng học sinh giỏi của tôi. Trong quá trình viết sáng kiến này, tôi còn gặp rất nhiều hạn chế và thiếu sót. Tôi chân thành lắng nghe sự đóng góp ý kiến quý báu của Hội đồng khoa học trường, của ngành và của các đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn! Người viết đề tài Lê Văn E Tài liệu tham khảo: 1.Sách giáo khoa và sách giáo viên Ngữ Văn 9 2.Tài liệu bồi dưỡng cho giáo viên THCS chu kỳ III(2004- 2007) Môn Ngữ Văn –NXB Giáo dục. 3. Phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở trường THCS theo hướng tích hợp và tích cực – Đoàn Thị Kim Phụng – NXB Đại học Quốc gia TPHCM. 4. Muốn viết được bài văn hay –Nguyễn Đăng Mạnh(chủ biên); Đỗ Ngọc Thống – Lưu Đức Hạnh – NXB Giáo Dục. 5. Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học cơ sở. Nhóm tác giả: PGS . TS Vũ Nho; TS Nguyễn Trọng Hoàn; TS Nguyễn Thúy Hồng; TS Đỗ Việt Hùng; TS Nguyễn Thị Ngọc. NXB Bộ giáo dục&Đào tạo- Năm 2002
Tài liệu đính kèm: