Tiết 31 : CHƯƠNG TRÌNH ĐỊA PHƯƠNG .
( PHẦN TIẾNG VIỆT )
A. Mục tiêu cần đạt : Giúp HS :
-Hệ thống hóa từ ngữ chỉ quan hệ ruột thịt , thân thích được dùng trong giao tiếp ở địa phương
1. Kiến thức : Các từ ngữ địa phương chỉ quan hệ ruột thịt , thân thích .
2.Kĩ năng : Sử dụng từ ngữ địa phương chỉ quan hệ ruột thịt , thân thích .
B. Chuẩn bị :
- Giáo Viên : Giáo án , SGK , SGV , bảng phụ .
- Học Sinh : Vở bài soạn, vở bài tập ,sưu tầm từ ngữ địa phương .
C/ Tiến trình lên lớp :
1.Ổn định tổ chức
2. Kiểm tra bài cũ :
Họat Động 1 : Giới thiệu bài
- Mục tiêu: Cũng cố kiến thức đã học. Tạo tâm thế và định hướng chú ý cho hs
- Phương pháp: Thuyết trình
3. Giới thiệu bài mới : Giới thiệu cấu trúc chương trình ngữ văn địa phương lớp 8.
GV đi vào bài mới .
Tiết 31 : CHƯƠNG TRÌNH ĐỊA PHƯƠNG . ( PHẦN TIẾNG VIỆT ) A. Mục tiêu cần đạt : Giúp HS : -Hệ thống hóa từ ngữ chỉ quan hệ ruột thịt , thân thích được dùng trong giao tiếp ở địa phương 1. Kiến thức : Các từ ngữ địa phương chỉ quan hệ ruột thịt , thân thích . 2.Kĩ năng : Sử dụng từ ngữ địa phương chỉ quan hệ ruột thịt , thân thích . B. Chuẩn bị : Giáo Viên : Giáo án , SGK , SGV , bảng phụ . Học Sinh : Vở bài soạn, vở bài tập ,sưu tầm từ ngữ địa phương . C/ Tiến trình lên lớp : 1.Ổn định tổ chức 2. Kiểm tra bài cũ : Họat Động 1 : Giới thiệu bài - Mục tiêu: Cũng cố kiến thức đã học. Tạo tâm thế và định hướng chú ý cho hs - Phương pháp: Thuyết trình 3. Giới thiệu bài mới : Giới thiệu cấu trúc chương trình ngữ văn địa phương lớp 8. GV đi vào bài mới . Họat Động 2 : Hình thành kiến thức mới. - Mục tiêu: HS nắm được từ địa phương chỉ quan hệ ruột thịt được sử dụng ở địa phương mình - Phương pháp: vấn đáp, thực hành có hướng dẫn HỌAT ĐỘNG CỦA THẦY VÀ TRÒ KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN ĐẠT Học sinh lập bảng từ địa phương- từ ngữ toàn dân theo mẫu. Sau khi học sinh thực hiện, Giáo viên yêu cầu 4 tổ cử đại diện trình bày bảng thống kê của mình bằng bảng phụ. Học sinh khác bổ sung. Học sinh trình bày bảng sưu tầm từ ngữ địa phương ở một số vùng núi. Sau đó thay bằng từ ngữ toàn dân ( Học sinh dựa vào tài liệu ngữ văn địa phương thực hiện.) Học sinh đọc ca dao, phân tích ý nghĩa. (Học sinh thảo luận nhóm, sau đó trình bày kq thảo luận). Sau khi Học sinh trình bàyà GV cho lớp nhận xét. GVH : Bài ca dao ca ngợi tình cảm Anh, Chị, Em trong một gia đình hay một xã hội? - Học sinh tìm ca dao, tục ngữ có sử dụng các từ ngữ ở bảng hệ thống, Hoạt động 3 : Luyện tập . - Mục tiêu : Củng cố và khắc sâu kiến thức - Phương pháp : Vấn đáp, thực hành có hướng dẫn BT1: Sưu tầm từ ngữ địa phương Ví dụ: Ngữ văn địa phương phần lớp 8. BT2: Sưu tầm và chép lại những bài thơ , bài văn , đọan văn hay có sử dụng từ ngữ địa phương chỉ quan hệ thân thích , ruột thịt ; phân tích để thấy được tác dụng của những từ ngữ này trong tác phẩm . BT3 :Phân tích ý nghĩa của một số câu ca dao, tục ngữ. a/ Anh em như thể chân tay: --> anh ,em cùng cha cùng mẹ hoặc bà conà gắn bó đoàn kết như tay và chân. b/ Chị ngã, em nâng. à tình cảm chị- em, giúp đỡ nhau trong cơn khó khăn. c/ Quyền huynh thế phụ, d/ Bán anh em xa , mua láng giềng gần I . Tìm hiểu bài. * Lập bảng đối chiếu giữa từ ngữ địa phương với từ toàn dân . STT Từ ngữ toàn dân Từ ngữ địa phương em. 1 Cha bố, ba, tía 2 Mẹ má, mạ, 3 Ông nội Ông nội II Luyện Tập 1. Sưu tầm từ ngữ chỉ quan hệ ruột thịt ở địa phương khác. 2. Sưu tầm : a. O du kích nhỏ giương cao súng . --> Từ o gợi cho ta hình ảnh người con gái xứ Nghệ trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, oai phong và dũng cảm. Cách diễn tả này gợi lên vẻ mộc mạc , bình dị, gần gũi . b. Và má muôn đời Nam Bộ vẫn chờ tôi . Má ngước đầu lên má biểu : “ Thằng Hai ! Gặp bữa , con ngồi xuống đây ăn cơm với má ”. --> Các từ địa phương trên mang đậm cách nói của người Nam Bộ . c. Từ điển tiếng nghệ ( Nguyễn Bùi Vợi ) Họat Động 4 : Củng cố – Dặn dò ? Thế nào là từ tòan dân , từ địa phương ? - Sưu tầm tiếp tục ngữ ca dao địa phương. - Soạn : Lập dàn ý cho bài văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm. Từ điển tiếng Nghệ ”Con trâu” thì gọi là “tru” ”Con giun” thì gọi là “trùn” đó nha ”Con gà” thì kêu “con ga” Còn con “cá quả” gọi ra “cá tràu” ”Con sâu” lại gọi là “trâu” ”Bồ câu” thì gọi “cu cu” đó nà ”Con ruồi” lại gọi là “ròi” ”Con troi” thì gọi “con giòi” nhớ chưa ”Con bê” còn gọi là “me” Con “mọi” là “muỗi” khi nghe đừng cười Mà cười là choa chửi thẳng tưng ”Trốc cha mi khái cạp” là “đầu bố mày hổ tha” ”Mả cha” - “ngôi mộ của ba” Mà “Ông cha mi xéo” là “Ông bố mày cút đi” Cái "gầu" thì gọi cái "đài" Ra "sân" thì bảo ra ngoài cái "cươi" "Chộ" tức là "thấy" em ơi "Trụng" là "nhúng" đấy, đừng cười nghe em "Thích" chi thì bảo là "sèm" Khi ai bảo "đọi" thì đem "bát" vào "Cá quả" thì gọi "cá tràu" "Vo trốc" là bảo "gội đầu" đấy em Trữ tình mà như tự sự. Chuyện một chàng trai xứ Nghệ lập nghiệp ở xứ Bắc và xe duyên, kết tóc với một cô gái ở đàng ngoài. Lần đầu anh đưa vợ về thăm quê và ra mắt bà con, họ hàng. Anh muốn cho vợ khỏi bỡ ngỡ và hòa nhập được nhanh với gia đình, theo anh, trước hết phải hiểu được tiếng địa phương nơi quê anh. Thế là anh cấp tốc trang bị cho vợ một loạt từ địa phương. Anh chỉ chọn những từ mà anh dự đoán là sẽ gặp trong trò chuyện, trong sinh hoạt. Như một đoạn văn từ điển, anh đọc cho vợ nghe, chẳng khác gì học ngoại ngữ. Kể ra anh ta đón đầu cũng khá. Vừa để vợ hiểu được người ta nói gì, vừa chủ động nói với người khác: “Thích chi thì bảo là sèm/ Nghe ai bảo đọi thì mang bát vào”. Các tiếng anh trang bị cũng đủ các loại âm: âm ai (đài), ươi (cươi), ô (chộ), ung (trụng), em (sèm), oi (đọi), au (tràu), đến cả âm oôc (troốc) cũng có. Thế nhưng khi gặp một tình huống bất ngờ: Răng chưa sang nhởi nhà choa Bà o đã nhốt con ga trong truồng thì vợ anh đành “bối rối”. Bối rối là phải. Bởi lúc anh bày thì bày từng tiếng một như kiểu tập đặt câu, mỗi câu một tiếng lạ. Nhưng ở đây lại nghe hai câu liên tiếp, mỗi câu có đến những ba tiếng lạ. Chẳng khác gì nghe tiếng nước ngoài. Hơn nữa, sáu tiếng này lại âm khác, không trùng với một âm nào mà anh đã trang bị: Ang (răng), ơi (nhởi), o (bà o), a (ga), uông (truồng). Có thể dụng ý hay từ vô thức xuất thần, nhưng cứ qua câu chữ mà phân tích thì thật là lý thú. Tình huống vừa xảy ra chắc ai cũng cười, ngay vợ anh cũng “cười bối rối”. Từ “bối rối” được đặt cạnh từ “cười” tạo thành cụm từ “cười bối rối” là một sáng tạo. “Bối rối” là lúng túng, mất bình tĩnh, không biết xử trí thế nào. Nhưng ở đây, nó không hàm nghĩa mất bình tĩnh nữa và cười là một cách xử trí vừa thông minh, vừa phúc hậu, dễ thương. Muốn ở đất nghệ phải biết chuyên cần Học nhiều từ ngữ âm vần nghe chưa? Nghe em giọng Bắc êm êm Bà con hàng xóm đến xem chật nhà Khi "mô" sang "nhởi" nhà "choa" Bà "o" đã nhốt "con ga" trong chuồng! Em cười bối rối mà thương Thương em một, lại trăm đường thương quê Gió lào thổi rạc bờ tre Chỉ qua giọng nói cũng nghe nhọc nhằn Chắt từ đá sỏi đất cằn Nên yêu thương mới sâu đằm đó em..! (Nguyễn Bùi Vợi) Em cười bối rối mà thương Thương em một lại trăm đường thương quê Thấy em bối rối mà anh thêm thương. Nhưng thương em thì một mà thương quê lại trăm nghìn lần. Mạch thơ tự sự bỗng chuyển sang trữ tình sâu lắng. Đang vui, đang cười bỗng chảy nước mắt. Đang nói về thương em, bỗng chuyển sang thương quê. Thương em vì em bối rối khi nghe người quê anh nói mà không hiểu. Nhưng thương quê vì sao quê anh lại được ông trời ban cho tiếng nói ấy. Một thứ tiếng mà “chỉ nghe giọng nói đã nghe nhọc nhằn”. Câu thơ thật hay, cảm nhận đúng và sâu sắc cái giọng nói của quê mình. Giọng nói của vùng đất nhiều núi non sông nước, nhiều đá sỏi đất cằn, nhiều gió Lào mưa bão Con người ở đây phải gồng mình lên mới sống nổi. Có lần, nhà thơ đã viết về con người xứ Nghệ: “Đã thẳng, thẳng như ruột ngựa/Đã nói là nói oang oang/Ông trời nói sai cũng cãi/ Như rứa là dân xứ Nghệ”. Từ Gió Lào thổi rạc bờ tre đến Chỉ nghe giọng nói đã nghe nhọc nhằn là một trường liên tưởng đầy hàm nghĩa. Ngôn từ ở đây mang đầy hồn cốt của dân Nghệ: “Thổi rạc” và “Nghe nhọc”. Cứ tiếp xúc với dân lao động ở vùng này thì bắt gặp ngay những từ như rạc người, gầy rạc, nghe nhọc lắm. Rạc là gầy, khô, hốc hác, phờ phạc, xơ xác Nhưng ở đời, cái gì cũng có hai mặt của nó. Thiên nhiên khắc nghiệt nên con người phải yêu thương, đùm bọc nhau mới có thể vượt qua được những cơn bão tố: Chắt từ đã sỏi đất cằn Nên yêu thương mới sâu đằm đó em Từ ngữ địa phương và những câu chuyện thú vị. Có một người sinh tại Nghệ An, học hành đỗ đạt. Có công việc và sống tại Hà Nội. Lâu ngày về thăm quê và đưa bố ra Hà Nội chơi. Trước khi đi, vì sợ bạn bè ngoài đó không hiểu tiếng hay bì lí do nào đó (*!?) mà dặn bố: Ra đó khi bố muốn nói tê thì phải nói là kia. Muốn nói mô thì phải nói là đâu. Bố nhớ đấy. Ra đến nơi, vì vừa làm việc vừa tranh thủ cho bố dạo cho biết Hà Nội nên người con để bố ngổi trên một mô đất. Mãi làm việc, nhiều giờ sau người con mới đến đón bố. Bố bảo: Con đi để bố ngồi trên cái đâu đất, ngồi lâu quá nên giờ bố kia hết cả chấn!!! Từ Ngữ Bắc Nam Từ Ngữ Bắc Nam Bắc than gầy thì Nam bảo Ốm Bắc cáo Ốm, Nam khai bịnh hay Đau Bắc cuốc nhanh, Nam Đi bộ mau mau Bắc bảo muộn thì Nam cho là trễ Nam mần sơ sơ Bắc nàm nấy nệ Bắc lệ trào Nam chảy nước mắt ra Bắc nói Úi Chà , Nam kêu Ui Da Bắc Bước vào kia, Nam Đi vô trỏng Nam kêu Vạc Tre, Bắc là Cái Chõng Nam Trả Treo, Bắc Lý Luận ngược xuôi Nam biểu Vui Ghê, Bắc nói Buồn Cười Bắc chỉ Thế Thôi , Nam là Vậy Đó Nam làm Giỏ Tre, Bắc đan cái Rọ Nam muỗng cà phê, Bắc gọi cái thìa Nam muỗng canh, Bắc gọi cái cùi dìa Nam Đi tuốt, thì Bắc la xa mãi Nam Nói Dai, Bắc cho là Lải Nhải Nam kêu Xe Hơi, Bắc gọi Ô Tô Nam xài Dù, thì Bắc lại dùng Ô Nam Đi trốn, Bắc cho là Lánh mặt Nam la Hơi Mắc, Bắc là Khá Đắt Nam Mần Ăn, thì Bắc cũng Kinh Doanh Nam Chối Lòng Vòng, Bắc bảo Dối Quanh Nam biểu Từ Từ, Bắc khuyên Gượm lại Nam Ngu Ghê, còn Bắc là Quá Dại Nam Sợ Ghê, Bắc thì Hãi Quá đi Nam Nói Gì ? Bắc hỏi Dạ bảo chi Nam kêu Trúng Lắm, Bắc bàn Chí Phải Bắc gọi Thích ghê, Nam kêu là Khoái Bắp Nam kêu hái, Bắc bảo Vặt Ngô Bắc thích cứ Vồ, Nam ưng là Chụp Nam rờ Bông Bụp, Bắc vuốt Tường Vi Nam nói: mày đi ! Bắc rên: cút xéọ Bắc bảo: cứ véo ! Nam: ngắt nó đị Bắc gửi phong bì, bao thơ Nam gói Nam kêu: muốn ói, Bắc bảo: buồn nôn ! Bắc nói tiền đồn, Nam kêu chòi gác Bắc nói khoác lác, Nam bảo xạo ke Mưa đến Nam che, gió ngang Bắc chắn Bắc khen giỏi mắng, Nam nói chửi haỵ Bắc nấu thịt cầy, Nam chê thịt chó Bắc vén búi tó, Nam bới tóc lên Anh Cả Bắc quên, anh Hai Nam lú Nam: ăn đi chú, Bắc: mời anh xơi ! Bắc mới tập bơi, Nam thời đi lội Bắc đi phó hội, Nam tới chia vui Bắc kéo xe lôi, xích lô Nam đạp Bắc bảo cao to Nam cho là lớn Đùa mà không thật, Bắc bảo là điêu Giỡn hớt đã nhiều, Nam kêu là xạo Nam thời mập bạo, Bắc bảo béo ghê Bắc bảo sướng phê, Nam rên đã quá ! Bắc hay đi phá Bắc đả bằng gươm Nam chọc bị lườm, kiếm Nam , Nam thọt Bắc ngồi bia bọt, Nam nhậu lade Bắc bùi bùi lạc rang, Nam thơm thơm đậu phụng Nam tròm trèm ăn vụng, Bắc len lén ăn vèn Nam toe toét "hổng chịu đèn", Bắc vặn mình "emchả" Bắc giấm chua "cái ả", Nam bặm trợn "con kia" Nam chửi "tên cà chua", Bắc rủa "đồ phải gió" Nam nhậu nhẹt thịt chó, Bắc đánh chén cầy tơ (sưu tầm)
Tài liệu đính kèm: