Giáo án Ngữ văn 8 tiết 21, 22 bài 6: Văn bản: Cô bé bán diêm - An-đéc-xen

Giáo án Ngữ văn 8 tiết 21, 22 bài 6: Văn bản: Cô bé bán diêm - An-đéc-xen

TIẾT 21 VĂN BẢN

CÔ BÉ BÁN DIÊM

- An-đéc-xen-

I. Mục tiêu: Giúp HS:

 1. Về kiến thức: Khám phá nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, có sự đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng với các tình tiết diễn biến hợp lí của truyện Cô bé bán diêm.

 2. Về kĩ năng: Biết phân tích truyện nước ngoài theo yêu cầu tiết học.

 3. Về thái độ: Qua tìm hiểu truyện truyền cho người đọc lòng thương cảm của tác giả đối với em bé bất hạnh.

II. Chuẩn bị của GV và HS

 1. Chuẩn bị của GV: SGK, SGV, đồ dùng dạy học- nghiên cứu soạn giáo án.

 2. Chuẩn bị của HS: SGK, vở ghi- học bài cũ- chuẩn bị bài mới theo SGK.

 

doc 10 trang Người đăng haiha30 Lượt xem 586Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án Ngữ văn 8 tiết 21, 22 bài 6: Văn bản: Cô bé bán diêm - An-đéc-xen", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGỮ VĂN BÀI 6 TUẨN 6
Kết quả cần đạt
- Hiểu được nội dung xúc động và nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn của tác phẩm: Cô bé bán diêm.
- Hiểu được thế nào là trợ từ, thán từ, biết cách dùng trợ từ, thán từ trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
- Thấy được sự kết hợp và tác động qua lại gữa các yếu tố kể, tả và biểu lộ tình cảm trong của người viết trong văn bản tự sự.
Ngày soạn:	.	Ngày dạy: .................. Dạy lớp 8C
	Ngày dạy: .. Dạy lớp 8D
TIẾT 21 VĂN BẢN
CÔ BÉ BÁN DIÊM
- An-đéc-xen-
I. Mục tiêu: Giúp HS:
	1. Về kiến thức: Khám phá nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, có sự đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng với các tình tiết diễn biến hợp lí của truyện Cô bé bán diêm. 
	2. Về kĩ năng: Biết phân tích truyện nước ngoài theo yêu cầu tiết học.
	3. Về thái độ: Qua tìm hiểu truyện truyền cho người đọc lòng thương cảm của tác giả đối với em bé bất hạnh.
II. Chuẩn bị của GV và HS
	1. Chuẩn bị của GV: SGK, SGV, đồ dùng dạy học- nghiên cứu soạn giáo án.
	2. Chuẩn bị của HS: SGK, vở ghi- học bài cũ- chuẩn bị bài mới theo SGK.
III. Tiến trình bài dạy
	* Ổn định tổ chức: Sĩ số 8C: .
	Sĩ số 8D: .	
A. Kiểm tra bài cũ (4’): Kiểm tra miệng.
	Câu hỏi: Trình bày giá trị của truyện Lão Hạc?
	Đáp án: Truyện ngắn cho thấy tài năng nghệ thuật xuất sắc của nhà văn Nam Cao, đặc biệt trong việc miêu tả tâm lí nhân vật và cách kể chuyện. (5 đ)
	- Truyện đã thể hiện chân thực, cảm động số phận đau thương của người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao đẹp của họ. (5 đ)
	* Vào bài (1’): An-đéc-xen là nhà văn nổi tiếng nhất Đan Mạch với nhiều truyện kể cho trẻ em. Tiết học này, ta cùng đi tìm hiểu một tác phẩm nổi tiếng của ông đó là truyện Cô bé bán diêm.
B. Dạy nội dung bài mới:
	I. ĐỌC VÀ TÌM HIỂU CHUNG (18’)
	1. Vài nét về tác giả, tác phẩm
	GV: Gọi HS đọc chú thích * SGK. T. 67.
	?TB: Nêu những hiểu biết cơ bản của em về tác giả, tác phẩm?
	- An-đéc-xen (1805-1875) là nhà văn Đan Mạch nổi tiếng với loại truyện kể cho trẻ em. Nhiều truyện ông biên soạn từ truyện cổ tích, có những truyện do ông sáng tác. Truyện của ông nhẹ nhàng toát lên lòng thương yêu con người nghèo khổ, tin tưởng vào những điều tốt đẹp trên thế gian.
	- Văn bản trích gần hết truyện Cô bé bán diêm.
GV: Dựa vào những điều lưu ý SGV mở rộng kiến thức về tác giả, tác phẩm cho HS.
	2. Đọc văn bản
	GV: Đây là một văn bản tự sự có nhân vật, sự việc, diễn biến, ngôn ngữ kể chuyện. Vì vậy, khi đọc cần thể hiện rõ giọng kể.
	GV: Gọi HS1 đọc từ đầu đến “đờ ra”. Gọi HS2 đọc tiếp đến “chầu Thượng đế”. Gọi HS3 đọc đoạn còn lại.
	GV: Yêu cầu HS chú ý các chú thích 2, 3, 5, 10, 11.
	?KH: Hãy tóm tắt nội dung của văn bản?
	HS: Vào một đêm giao thừa, ngoài đường phố giá lạnh xuất hiện một cô bé ngồi nép trong một góc tường. rét mướt nhưng cô bé không dám về nhà vì sợ bố đánh bởi em chưa bán được bao diêm nào. Em quyết định quẹt một que diêm để sưởi. Lần quẹt thứ nhất, em thấy hiện lên ánh lửa lò sưởi. Lần quẹt thứ hai thấy bàn ăn có ngỗng quay. Lần quẹt thứ ba thấy cây thông Nô-en. Lần quẹt thứ thứ tư thấy bà hiện về. Quẹt hết những que diêm còn lại hai bà cháu bay về chầu Thượng đế. Buổi sáng mồng một đầu năm, người ta thấy thi thể em bé giữa những bao diêm, không ai biết những điều kì diệu em bé đã trông thấy.
	?TB: Tìm bố cục cho văn bản?
	HS: 3 phần. Phần 1 từ đầu đến “cứng đờ ra”=> Hoàn cảnh của cô bé bán diêm. Phần 2 tiếp đến “Thượng đế”=> Những mộng tưởng của cô bé. Phần 3 còn lại. Cái chết của cô bé.
	GV: Truyện diễn biến theo trình tự ba phần như trên là mạch lạc, hợp lí.
	?KG: Em nhận thấy có sự xuất hiện của các phương thức biểu đạt nào trong văn bản Cô bé bán diêm?
	HS: Có cả tự sự, miêu tả và biểu cảm.
	II. PHÂN TÍCH 
	1. Hoàn cảnh của cô bé bán diêm trong đêm giao thừa (19’)
	?TB: Hãy tìm những chi tiết kể về hoàn cảnh của cô bé bán diêm?
	- Đêm giao thừa, trời rét mướt. Một cô bé bán diêm nhà nghèo, mồ côi mẹ, đầu trần, chân đi đất, bụng đói, đang dò dẫm trong bóng tối.
	- Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay.
- Thần Chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tán, gia đình em đã phải lìa ngôi nhà xinh xắn chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa.
- Em ngồi nép vào một góc tường. [] em không thể nào về nhà nếu không bán được ít bao diêm[] cha em sẽ đánh em. 
?TB: Câu chuyện của cô bé xảy ra trong không gian, thời gian như thế nào?
	HS: Truyện được đặt vào bối cảnh đêm giao thừa, ngoài đường phố rét buốt.
	GV: Ở các nước Bắc Âu như Đan Mạch vào dịp này thời tiết rất lạnh, nhiệt độ có khi xuống tới vài chục độ dưới không, tuyết rơi dày đặc.
	?KG: Nhà văn có dụng ý gì khi chọn không gian, thời gian như vậy?
	HS: Nhằm khắc hoạ sâu sắc hơn tình cảnh của em bé bán diêm trong đêm giao thừa. Đêm giao thừa là thời khắc chuyển giao từ năm cũ sang năm mới nên ai cũng sung sướng đón chờ, mọi gia đình đều sum họp, đầm ấm hạnh phúc bên nhau. Mọi người tràn đầy niềm vui hạnh phúc còn em bé bán diêm lại khác hẳn.
?KH: Nhận xét cách kể và biện pháp nghệ thuật tác giả sử dụng ở đoạn này?
HS: Cách kể ngắn gọn mà đầy đủ. Tác giả dùng nhiều hình ảnh tương phản có lựa chọn: Đêm giao thừa trời rét mướt - cô bé đầu trần, chân đi đất; cửa sổ mọi nhà sáng rực ánh đèn- em bé đang dò dẫm trong bóng tối của đêm giao thừa; trong phố sực nức mùi ngỗng quay- em bé bụng đói; ngôi nhà xinh xắn- xó tối tăm=> giúp người đọc hình dung được cảnh sống trong quá khứ và hiện tại của em bé là vô cùng khác biệt.
	GV: Bằng việc tự sự, miêu tả, biểu cảm, nhà văn đã đưa người đọc đến với không khí đón giao thừa ở một phố nhỏ trên đất nước Đan Mạch. Trong mỗi nhà, ai nấy đang náo nức đón chờ năm mới. Mọi người bên nhau ấm áp, hạnh phúc. Đối lập với khung cảnh đó ngoài đường rét buốt, tuyết rơi dày đặc, em bé bán diêm đầu trần, chân đi đất “đang ngồi nép trong một góc tường giữa hai ngôi nhà, bụng đói vì cả ngày chưa được ăn uống gì.” 
	?KG: Từ những hình ảnh đối lập ấy, em cảm nhận thế nào về hoàn cảnh của em bé bán diêm đêm giao thừa?
	HS: Hoàn cảnh của em bé thật tội nghiệp, đáng thương: mẹ mất sống với cha, bà nội là người hiền hậu thương yêu em nhất cũng qua đời, gia đình sa sút trở thành nghèo khó, em luôn phải nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa của bố, phải đi bán diêm để kiếm sống. Em bơ vơ, cô đơn giữa đêm giao thừa rét buốt, giữa cuộc đời rộng lớn lạnh lùng. Em đã rét càng rét hơn, đói lại càng đói hơn khi thấy ánh đèn sáng ở cửa sổ mọi nhà và ngửi thấy mùi ngỗng quay sực nức. Còn có sự tương phản giữa hình ảnh “cái xó tối tăm” em sống chui rúc với bố hiện nay và “ngôi nhà xinh xắn có dây thường xuân bao quanh” năm xưa khi bà nội em còn sống. Hình ảnh tương phản này không chỉ làm nổi bật nỗi khổ về vật chất mà cả sự mất mát, chỗ dựa tinh thần của em bé bây giờ, vì chỉ có bà em là thương em thì bà lại đã qua đời. Còn bố em là người ruột thịt duy nhất của em lại luôn đánh chửi em. Cách kể của nhà văn đã gây bao xúc động cho người đọc về em bé khốn khổ, đói, rét và cô đơn.
	* Em bé thật khốn khổ: đói, rét và cô đơn.
C. Củng cố, luyện tập (2’):
	GV: Cho HS đọc lại toàn bộ đoạn trích.
D. Hướng dẫn học ở nhà (1’):
	- Học thuộc phần tác giả, tác phẩm; xem lại nội dung phần đã phân tích; xem kĩ phần còn lại để tiết tới học tiếp.
	-----------------------------------------------------
Ngày soạn:	.	Ngày dạy: .................. Dạy lớp 8C
	Ngày dạy: .. Dạy lớp 8D
TIẾT 22 VĂN BẢN
CÔ BÉ BÁN DIÊM
- An-đéc-xen-
I. Mục tiêu: Tiếp tục giúp HS:
	1. Về kiến thức: Khám phá nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, có sự đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng với các tình tiết diễn biến hợp lí của truyện Cô bé bán diêm. 
	2. Về kĩ năng: Biết phân tích truyện nước ngoài theo yêu cầu tiết học.
	3. Về thái độ: Qua tìm hiểu truyện truyền cho người đọc lòng thương cảm của tác giả đối với em bé bất hạnh.
II. Chuẩn bị của GV và HS
	1. Chuẩn bị của GV: SGK, SGV, đồ dùng dạy học- nghiên cứu soạn giáo án.
	2. Chuẩn bị của HS: SGK, vở ghi- học bài cũ- chuẩn bị bài mới theo SGK.
III. Tiến trình bài dạy
	* Ổn định tổ chức: Sĩ số 8C: .
	Sĩ số 8D: .	
A. Kiểm tra bài cũ (3’): Kiểm tra miệng.
	Câu hỏi: Nêu hiểu biết của em về tác giả An-đéc-xen và truyện Cô bé bán diêm được học trong chương trình lớp 8?
	Đáp án: An-đéc-xen (1805-1875) là nhà văn Đan Mạch nổi tiếng với loại truyện kể cho trẻ em. Nhiều truyện ông biên soạn từ truyện cổ tích, có những truyện do ông sáng tác. Truyện của ông nhẹ nhàng toát lên lòng thương yêu con người nghèo khổ, tin tưởng vào những điều tốt đẹp trên thế giới.(8 điểm)
	- Văn bản trích gần hết truyện Cô bé bán diêm. (2 điểm)
	* Vào bài (1’): Tiết học trước, chúng ta đã đi tìm hiểu xong phần: Em bé đêm giao thừa. Tiết học này ta tìm hiểu tiếp phần còn lại.
B. Dạy nội dung bài mới:
GV: Gọi HS đọc đoạn truyện thứ hai. Yêu cầu HS nêu nội dung truyện.
	2. Thực tế và mộng tưởng của cô bé bán diêm (20’)
	?TB: Theo dõi phần truyện kể, em thấy cô bé đã quẹt diêm tất cả mấy lần? Số diêm quẹt trong mỗi lần khác nhau ra sao?
	HS: Cô bé quẹt tất cả năm lần. Trong đó 4 lần đầu mỗi lần quẹt một que, lần thứ 5 quẹt hết các que diêm còn lại trong bao.
	?TB: Mỗi lần quẹt diêm là một lần em bé tưởng tượng, hãy chỉ ra thực tế và mộng tưởng của em trong mỗi lần đó?
	- [] em đánh liều quẹt một que [] Em tưởng chừng như đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt [] Em vừa duỗi chân [] lò sưởi biến mất.
	- Em quẹt que diêm thứ hai. Bàn ăn đã dọn, có cả một con ngỗng quay, que diêm vụt tắt chỉ còn những bức tường dày đặc.
	- Em quẹt que diêm thứ ba hiện ra một cây thông Nô-en. Diêm tắt. Tất cả các ngọn nến bay lên biến thành những ngôi sao trên trời.
	- Em quẹt que diêm nữa [] bà em đang mỉm cười với em, diêm tắt, ảo ảnh cũng biến mất.
	- Em quẹt tất cả những que diêm còn lại hai bà cháu bay vụt lên cao []. Họ đã về chầu Thượng đế.
	?KH: Nghệ thuật kể chuyện của tác giả trong đoạn văn có gì đặc biệt?
	HS: Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đan xen giữa thực tế và mộng tưởng các sự việc được kể diễn ra theo một thứ tự hợp lí.
	?KH: Em hiểu thế nào là mộng tưởng? Mộng tưởng thường đến với con người trong những hoàn cảnh nào?
	HS: Mộng tưởng là điều mong ước quá cao xa, dường như chỉ có trong mơ đối với một ai đó. Mộng tưởng thường xảy ra đối với những người nghèo khổ, bất hạnh khi họ lâm vào một hoàn cảnh thật éo le, khắc nghiệt. Khi cuộc sống hiện thực khổ quá thì họ phải mơ ước đến một cuộc sống tốt đẹp hơn và ước mơ đó chỉ có thể là những mộng tưởng.
GV: Nhiều khi mộng tưởng chỉ là sự nhớ lại những điều mình đã có hoặc đã được nhìn thấy, có lúc chỉ thuần tuý là mộng tưởng do mình tưởng tượng ra. Điều này đã làm nên đặc điểm nổi bật của đoạn văn. Sự đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng, khiến câu chuyện tuy thương tâm nhưng lại rất hấp dẫn bởi cái chất thơ diệu kì của nó.
	?TB: Vì sao trong lần quẹt diêm thứ nhất, em bé lại mộng tưởng thấy lò sưởi?
	HS: Vì ở châu Âu, mùa đông rất khắc nghiệt, nhiệt độ xuống dưới độ âm rất nhiều. Để chống lại cái giá rét đó, nhà nào cũng có một lò sưởi. Lúc ấy em bé bán diêm đang rét buốt, “đôi bàn tay em đã cứng đờ ra” nên mơ ước trước tiên của em là lò sưởi để được sưởi ấm.
	?KH: Em có nhận xét như thế nào về mộng tưởng trong lần quẹt diêm thứ hai của em bé? 
	HS: Mộng tưởng về một bàn ăn đã dọn. Điều này cũng rất dễ hiểu bởi nó phù hợp với nhu cầu tự nhiên của con người. Sau cái rét là cái đói, suốt cả ngày đi lang thang bán diêm em chưa được ăn gì em đang rất đói trong phố lại sực nức mùi ngỗng quay đầy hấp dẫn càng khiến cơn đói cồn cào gan ruột em; và vào cái thời khắc giao thừa, em bé nào lại không nhớ đến một mâm cỗ gia đình đón giao thừa ấm cúng nên em không thể không mơ ước tới một bàn ăn đã dọn.
	GV: Vì là ước mơ nên bàn ăn rất sang trọng, nhưng kì diệu nhất là chi tiết trẻ thơ “ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé”. Chỉ có mộng tưởng của một em bé thì mới ngộ nghĩnh và thú vị đến vậy.
	?TB: Sau hai lần quẹt diêm đó, thực tế đã thay cho mộng tưởng như thế nào?
	HS: “Lò sưởi biến mất. Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em đi bán diêm. Đêm nay về nhà thế nào cũng bị cha mắng. “Chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, mà chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xoá, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm áp vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em”
	?KG: Sự sắp đặt song song cảnh mộng tưởng và cảnh thực tế đó có ý nghĩa gì?
	HS: Làm nổi rõ mong ước hạnh phúc giản dị, chính đáng và thân phận bất hạnh của em. Đồng thời cho thấy sự thờ ơ, vô nhân đạo của xã hội đối với người nghèo khổ và trẻ em bất hạnh.
	?KH: Mộng tưởng thứ ba của em bé đẹp và hay ở chỗ nào? Chi tiết các ngọn nến bay lên, biến thành những ngôi sao trên trời có vai trò gì?
	HS: Mộng tưởng thứ ba là ảo ảnh về cây thông Nô-en. Điều này đến với em cũng rất hợp lí và tự nhiên. Sau ước mơ được sưởi ấm và ăn no, đối với trẻ em là vui chơi giải trí. Và vào lúc giao thừa, ở các nước Tây Âu, điều ước ao của mọi em bé là được đón giao thừa cùng với cây thông Nô-en rực rỡ như là một niềm vui của năm mới, trước đây đã có một thời em cũng được đón giao thừa trong khung cảnh như thế. Vì là ước mơ nên cây thông Nô-en trong mộng tưởng của em lớn và trang trí lộng lẫy hơn mọi cây mà em đã được thấy để rồi khi diêm tắt “tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời. Chi tiết này là sự chuyển tiếp tự nhiên sang ước mơ thứ tư của em bé.
	GV: Từ lần quẹt diêm thứ nhất, đến thứ hai, thực tế đã xoá nhoà đi mộng tưởng của em bé. Nhưng đến lần thứ ba thì dường như mộng tưởng đã vươn dậy, cố vượt lên trên thực tế. Vì thế khi diêm tắt, em bé thấy tất cả các ngọn nến bay lên, biến thành những ngôi sao trên trời. Đây là một chi tiết thú vị, vừa bay bổng lãng mạn, vừa gợi em nhớ đến người bà hiền hậu duy nhất của mình. Về mặt nghệ thuật đây là sự chuyển tiếp khéo léo và tự nhiên sang mộng tưởng thứ tư của em bé.
	?KH: Em suy nghĩ như thế nào về mộng tưởng thứ tư cùng thái độ của em bé khi mộng tưởng xuất hiện?
	HS: Mộng tưởng thứ tư là hình ảnh người bà yêu quý của em. Điều này cũng phù hợp với quy luật phát triển nội tâm của nhân vật. Ước mơ được sưởi ấm, ăn no, vui chơi giải trí, bây giờ là tình cảm- điều quan trọng nhất mà ai cũng cần đến và đối với em lúc này thì đó là người bà mà em yêu quý nhất đã chết từ lâu. Vì thế, khi que diêm thứ tư bừng sáng bà nội xuất hiện, ngay lập tức, em đã reo lên, thiết tha xin với bà cho mình đi theo. Vì chỉ có ở với bà, em mới được sung sướng, hạnh phúc.	
	GV: Có thể nói, đến mộng tưởng thứ tư khát khao mong ước của em bé bừng dậy mãnh liệt hơn ba mộng tưởng trước rất nhiều. Vì thế khi diêm tắt tác giả đã tả thật ấn tượng và đau xót:“Que diêm tắt phụt, và ảo ảnh rực sáng trên khuôn mặt em bé cũng biến mất”. Hẳn là lúc ấy, em bé đã kiệt sức lắm rồi, em đang gục xuống bức tường bên cạnh và lịm dần đi nhưng vì ước mơ đẹp quá nên em cố gượng dậy lần cuối để mơ nốt phần đẹp nhất.
	?TB: Tại sao lần thứ năm em bé lại quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao?
	HS: Vì em mong muốn được mãi mãi sống bên bà nội người yêu thương em nhất. Vì em khao khát một tình thương ấp ủ mà hiện tại em không hề có.
	GV: Khi tất cả những que diêm còn lại trong bao cháy lên là lúc cô bé bán diêm thấy mình bay lên cùng bà “chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe doạ họ nữa”.
GV: Em hiểu mộng tưởng cuối cùng của em bé là gì? Hình ảnh kết thúc mộng tưởng có ý nghĩa như thế nào?
	HS: Em bé mong muốn thoát khỏi cuộc sống đói rét, đau buồn. Hình ảnh kết thúc mộng tưởng rất giàu ý nghĩa: cuộc sống trên thế giới chỉ là buồn đau và đói rét đối với người nghèo khổ; chỉ có cái chết mới giải thoát được bất hạnh của họ. Vì cái chết sẽ đưa linh hồn họ đến nơi hạnh phúc vĩnh hằng, theo tín ngưỡng Thiên Chúa. Nhưng người chết là hết còn đâu mà hưởng niềm hạnh phúc nào nữa. Ý nghĩa nhân văn và sự lên án xã hội cũng chính là ở chỗ này.
	?TB: Hãy nhận xét những ước mơ của em bé qua năm lần quẹt diêm nói trên?
HS: Ước mơ của em thật giản dị, ngây thơ, gắn liền với tuổi thơ trong sáng và nhân hậu của em. Em khao khát có cuộc sống vật chất đầy đủ, được hưởng những thú vui tinh thần, được sống trong hạnh phúc gia đình êm ấm, được bà chăm sóc, chiều chuộng. Đó cũng là những ước mơ, khát vọng chính đáng, muôn đời của các em bé nói riêng và của con người nói chung.
	?KH: Trong số những mộng tưởng của cô bé, điều nào gắn với thực tế, điều nào thuần tuý là mộng tưởng? Vì sao?
	HS: Những mộng tưởng: lò sưởi, bàn ăn, cây thông Nô-en gắn với thực tế. Con ngỗng quay nhảy ra khỏi đĩa, hai bà cháu nắm tay nhau bay lên trời thuần tuý chỉ là mộng tưởng. Những mộng tưởng gắn với thực tế vì đó là những điều em đã có hoặc đã nhìn thấy trước đây và khi ấy, nó đã biến thành mộng tưởng của em. Còn những mộng tưởng thuần tuý là những mong ước khát khao về một điều kì diệu giống như trong truyện cổ tích do em bé tự tưởng tượng ra để mơ ước cháy bỏng về cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy.
	?KH: Kể những lần cô bé quẹt diêm, nhà văn muốn nói điều gì?
	* Em bé bất hạnh khao khát được sống trong một mái nhà hạnh phúc.
	GV: Thể hiện khát vọng, ước mơ của một em bé cụ thể trong câu chuyện này nhà văn An-đéc-xen hẳn đã cháy lòng mong muốn các em bé và mọi người, trước hết là những kiếp người đói khổ vượt qua được những thực tế phũ phàng để vươn tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Mỗi lần em bé quẹt diêm đốt lửa dường như cũng là một lần ngọn lửa tin yêu, khát vọng trong trái tim nhà văn cháy lên, sáng lên, động viên con người, giục giã con người. Nhưng thực tế phũ phàng- thực tế cuộc sống nước Đan Mạch những năm giữa thế kỉ XIX, khi nhà văn viết tác phẩm này đã xoá đi mộng tưởng của em bé bán diêm và biết bao người nghèo khổ khác nữa. Vì thế, khi em bé được gặp lại bà cũng là lúc em từ giã cõi đời. 
	3. Một cảnh thương tâm (12’)
	?TB: Tìm những chi tiết miêu tả cảnh tượng thương tâm trong đoạn cuối truyện?
	- Sáng hôm sau, [] mọi người vui vẻ ra khỏi nhà, người ta thấy một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đã chết vì giá rét []
	?KH: Chỉ ra nghệ thuật nổi bật ở đoạn này?
	HS: Lời văn kể, tả giàu cảm xúc, hình ảnh đối lập tương phản.
	?KG: Từ những hình ảnh đó, gợi cho em có cảm xúc gì về cuộc đời và số phận của cô bé bán diêm?
	HS: Em bé thật tội nghiệp. Người đời đối xử với em quá lạnh lùng chỉ có mẹ và bà là yêu thương em nhưng họ đều qua đời. Cha em có lẽ vì quá nghèo khổ nên cũng đối xử với em thiếu tình thương; khách qua đường chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em nên em chẳng bán được bao diêm nào; những người nhìn thấy thi thể em vào sáng mồng một cũng lạnh lùng như thế.
	?KH: Miêu tả cái chết của em bé qua hình ảnh “một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười” nhà văn muốn khẳng định điều gì?
	HS: Nhà văn muốn khẳng định hình hài thể xác em bé đã chết mà linh hồn, khát vọng của em bé vẫn còn sống. Em đã cố gắng vươn lên rất nhiều lần để sống trong cái đêm giao thừa đầy rét buốt, cô đơn ấy. Nhưng người đời và xã hội đã bỏ mặc em, để mặc cho sự đói rét đưa em về với thế giới bên kia trong niềm vui hạnh phúc tưởng tượng không có thật.
	?TB: Vậy, em có thể nói như thế nào về cái chết của em bé?
	* Em bé chết vì sự đối xử lạnh lùng của người đời.
	GV: Trong cái xã hội thiếu tình thương ấy, nhà văn An-đéc-xen đã viết truyện này với tất cả niềm thông cảm, thương yêu đối với em bé bất hạnh. Chính tình thương yêu ấy đã khiến nhà văn miêu tả thi thể em với đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười, đồng thời hình dung ra cảnh huy hoàng hai bà cháu bay lên trời để đón lấy những niềm vui đầu năm. Nhưng rõ ràng truyện Cô bé bán diêm và phần kết của truyện này là “một cảnh thương tâm”. Và hình tượng em bé bán diêm vẫn toát lên một bi kịch- bi kịch của một con người thiếu vắng tình thương của con người. 
	?KH: Qua câu chuyện này nhà văn muốn gửi tới mọi người ở mọi thời đại thông điệp nào?
	HS: Thông điệp: hãy yêu thương con trẻ, hãy dành cho cho chúng một cuộc sống bình yên hạnh phúc, hãy cho con trẻ một mái ấm gia đình. Hãy biến mộng tưởng sau ánh lửa diêm thành hiện thực cho trẻ thơ. Giá trị sâu sắc của tác phẩm chính là ở chỗ đó.
	?TB: Em có muốn cách kết thúc khác không? Vì sao?
	HS: tự bộc lộ.
	?KG: Nêu nghệ thuật và nội dung cơ bản của truyện?
	III. TỔNG KẾT – GHI NHỚ (7’)
	- Nghệ thuật kể chuyên hấp dẫn, lựa chọn chi tiết tương phản đặc sắc, đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng, các tình tiết diễn biến hợp lí truyền tới người đọc sự xúc động sâu sắc.
	- Truyện cho thấy xã hội Đan Mạch thế kỉ XIX thật lạnh lùng, qua đó bộc lộ tình cảm yêu thương của nhà văn với trẻ em bất hạnh.
	GV: Gọi HS đọc ghi nhớ SGK. T. 68.
C. Củng cố, luyện tập (2’):
	?: Đọc Cô bé bán diêm, em nhận thức điều sâu sắc nào về xã hội và con người mà tác giả muốn nói với chúng ta?
	HS: Trên một thế gian lạnh lùng và đói khát không có chỗ cho ấm no, niềm vui và hạnh phúc của trẻ thơ nghèo khổ.
	?: Từ đó, em hiểu gì về tấm lòng của nhà văn dành cho thế giới nhân vật tuổi thơ của ông?
	HS: Thương xót, đồng cảm, bênh vực.
D. Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà (1’):
- Học thuộc ghi nhớ, làm bài tập SGK.
	- Soạn: Trợ từ, thán từ. Yêu cầu về nhà:
	+ Đọc, tìm hiểu kĩ các ví dụ và câu hỏi thuộc mục I, II SGK;
	+ Suy nghĩ, trả lời các câu hỏi trong mục I, II.

Tài liệu đính kèm:

  • docTiet 21, 22 bai 6.doc