Bài thu hoạch Đổi mới phương pháp dạy học môn ngữ văn

Bài thu hoạch Đổi mới phương pháp dạy học môn ngữ văn

Theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) trong môn ngữ văn không có sự hạ thấp vai trò của giáo viên (GV) mà ngược lại GV chính là người tổ chức, thiết kế, điều hành giờ học.

Đây là phương pháp hạn chế tối đa lối dạy lý thuyết một chiều, chuyển quá trình thuyết giảng của GV thành những cuộc trao đổi, đàm thoại giữa thầy và trò, giữa học sinh (HS) và HS giúp các em tự tìm hiểu và đánh giá được mức độ tìm hiểu bài học của mình.

Dạy tích cực - Học tích cực

Trước hết GV phải biết thiết kế tổ chức HS thực hiện các hoạt động học tập ngữ văn nhằm phát triển tư duy ngôn ngữ, rèn luyện kỹ năng nghe - nói - đọc - viết, năng lực cảm thụ tác phẩm văn chương. Thường xuyên điều chỉnh các hoạt động học tập của HS, động viên và luôn tạo điều kiện cho các em tham gia tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình tiếp nhận, giải mã và sản sinh văn bản. Song song đó, GV phải biết sử dụng và hướng dẫn HS sử dụng các thiết bị đồ dùng và ứng dụng CNTT để khai thác và vận dụng kiến thức ngữ văn có hiệu quả. Bằng mọi cách GV phải tạo điều kiện cho HS rèn luyện kỹ năng học tập tích cực, chủ động, hình thành thói quen vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Trong giảng dạy cần chú ý khai thác vốn kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng nghe - nói - đọc - viết mà HS đã có.

 

doc 9 trang Người đăng haiha30 Lượt xem 1429Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Bài thu hoạch Đổi mới phương pháp dạy học môn ngữ văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GD HUYỆN QUẢNG TRẠCH
 TRƯỜNG THCS QUẢNG HỢP
 TỔ KHXH 
 BÀI THU HOẠCH
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN
Theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) trong môn ngữ văn không có sự hạ thấp vai trò của giáo viên (GV) mà ngược lại GV chính là người tổ chức, thiết kế, điều hành giờ học. 
Đây là phương pháp hạn chế tối đa lối dạy lý thuyết một chiều, chuyển quá trình thuyết giảng của GV thành những cuộc trao đổi, đàm thoại giữa thầy và trò, giữa học sinh (HS) và HS giúp các em tự tìm hiểu và đánh giá được mức độ tìm hiểu bài học của mình. 
Dạy tích cực - Học tích cực 
Trước hết GV phải biết thiết kế tổ chức HS thực hiện các hoạt động học tập ngữ văn nhằm phát triển tư duy ngôn ngữ, rèn luyện kỹ năng nghe - nói - đọc - viết, năng lực cảm thụ tác phẩm văn chương. Thường xuyên điều chỉnh các hoạt động học tập của HS, động viên và luôn tạo điều kiện cho các em tham gia tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình tiếp nhận, giải mã và sản sinh văn bản. Song song đó, GV phải biết sử dụng và hướng dẫn HS sử dụng các thiết bị đồ dùng và ứng dụng CNTT để khai thác và vận dụng kiến thức ngữ văn có hiệu quả. Bằng mọi cách GV phải tạo điều kiện cho HS rèn luyện kỹ năng học tập tích cực, chủ động, hình thành thói quen vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Trong giảng dạy cần chú ý khai thác vốn kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng nghe - nói - đọc - viết mà HS đã có.
Về phía HS đòi hỏi các em luôn tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt động học tập để tự khám phá và lĩnh hội kiến thức, rèn luyện thái độ và tình cảm đúng đắn. Có thể mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến, quan điểm cá nhân trước các vấn đề của bộ môn ngữ văn, tiếng Việt, tập làm văn. Đánh giá và tự đánh giá các quan điểm của bản thân, của nhóm. Tích cực sáng tạo trong vận dụng kiến thức, kỹ năng để giải quyết các tình huống và các vấn đề đặt ra từ thực tiễn học tập bộ môn. HS biết chủ động trong xây dựng và thực hiện kế hoạch học tập bộ môn ngữ văn phù hợp với năng lực và điều kiện học tập của cá nhân. Biết sưu tầm và tìm hiểu các tài liệu văn, tiếng Việt, tập làm văn bằng các hình thức khác nhau. Có ý thức sử dụng đồ dùng học tập và các ứng dụng của CNTT để học tập bộ môn ngữ văn có hiệu quả.
Để đảm bảo tính khoa học cho các giờ học ngữ văn thì sự vận dụng các PPDH phải thực sự linh hoạt sáng tạo. Đổi mới cách dạy không có nghĩa là GV phải từ bỏ phương pháp giáo dục truyền thống để độc tôn cải tiến hoặc áp dụng một cách máy móc những PPDH từ các nước khác. Cũng không thể hiểu một cách chung chung về đổi mới PPDH là thầy giảng một nửa còn một nửa HS tự làm lấy. Sự vận dụng các PPDH phải đi từ cái HS đã có đến cái HS cần có, từ thực tiễn cuộc sống của HS tới kiến thức trong sách vở và quay trở về phục vụ cuộc sống. So với cách dạy truyền thống, sự vận dụng PPDH trong giờ ngữ văn đã có sự thay đổi cơ bản về chất: từ thông báo, tái hiện sang tổ chức cho HS tiếp nhận, cảm thụ; từ dạy học tính chất tĩnh sang tính chất động
Phương pháp dạy học đặc thù
Các văn bản trong chương trình ngữ văn THCS đều được chọn lọc rất kỹ và là những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu, đặc sắc. Nó giúp HS nhận thức cuộc sống, đưa đến những bài học, những cảm xúc thẩm mỹ cao đẹp, sâu lắng trong tâm hồn và tình cảm con người. Những điều này lại phụ thuộc vào bề dày vốn sống, tri thức kinh nghiệm sống của mỗi cá nhân. Do vậy tiếp nhận văn bản là một hệ thống mở và kết quả tiếp nhận ở mỗi HS có thể khác nhau, thậm chí có nhiều mới lạ chưa hẳn trùng khớp với dự kiến của GV. Dạy văn thực chất là giúp cho HS biến tác phẩm của nhà văn thành tác phẩm của mình. Chính vì thế đổi mới PPDH còn có nghĩa là tôn trọng và đề cao những tìm tòi, khám phá, cảm thụ phân tích văn bản tích cực của HS. Đây cũng là một biểu hiện của tính cá thể hóa và sáng tạo trong tiếp nhận văn bản.
- Phương pháp đọc sáng tạo: Đây là phương pháp rất quan trọng đối với hoạt động tiếp nhận văn bản bao gồm cả đọc, hiểu và cảm thụ. Hoạt động đọc sáng tạo không chỉ là đọc thuần túy mà bao gồm cả sự tổ chức hướng dẫn HS đọc có vận động kết hợp tư duy logic với tư duy hình tượng, giọng đọc và điệu bộ.
- Phương pháp dùng lời có nghệ thuật (còn gọi là phương pháp diễn giảng, bình giảng, truyền thụ): Là cách dạy học truyền thống theo mô hình truyền thông tin một chiều, được sử dụng trong các giờ dạy học tác phẩm văn chương hay cung cấp kiến thức mới.
- Phương pháp vấn đáp gợi tìm: Là phương pháp được hình thành trên cơ sở của quá trình tương tác giữa GV và HS thông qua việc GV và HS đặt ra những câu hỏi và tìm ra câu trả lời tương ứng về một chủ đề nhất định
Quảng Hợp ngày 28 tháng 09 năm 2011
 Người làm bản thu hoạch
 Bùi Xuân Thái
PHÒNG GD HUYỆN QUẢNG TRẠCH
 TRƯỜNG THCS QUẢNG HỢP
 TỔ KHXH
BÀI THU HOẠCH
SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG ĐỔI MỚI PPDH MÔN NGỮ VĂN THCS
1. Vai trò của bản đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học
          Bản đồ tư duy ( BĐTD) là hình thức ghi chép, sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. BĐTD- một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình hoạ giữa sự kết hợp giữa các từ ngữ, hình ảnh, màu sắc, đường nét phù hợp với cấu trúc hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não.
          Cơ chế hoạt động của bản đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng ( Các nhánh)- BĐTD là công cụ đồ hoạ nối các hình ảnh có liên hệ với nhau, vì vậy có thể sử dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hoá kiến thức sau mỗi chương
          BĐTD giúp học sinh học được phương pháp học tập chủ động, tích cực. Thực tế ở trường phổ thông cho thấy, một số học sinh có xu hướng không thích học môn Ngữ văn hoặc ngại học môn Ngữ văn do đặc trưng môn học thường phải ghi chép nhiều, khó nhớ. Một số em học tập chăm chỉ nhưng thành tích họch tập chưa cao. Các em thường học bài nào biết bài nấy, học phần sau không biết liên hệ với phần trước, không biết hệ thồng kiến thức, liên kết kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước vào bài học sau. Do đó, việc sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học, sẽ giúp học sinh học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
          BĐTD gíp học sinh học tập tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc HS vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, các em được tự do chọn màu sắc ( xanh, đỏ, tím, vàng), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong..), các em tự “ sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em sẽ yêu quý, trân trọng “ tác phẩm” của mình.
          BĐTD giúp HS ghi chép rất hiệu quả. Do đặc điểm của BĐTD nên người thiết kế BĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp bố cục để ghi thông tin cần thiết nhất và lôgic, vì vậy, sử dụng BĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành cách ghi chép hiệu quả.
          BĐTD có thẻ sử dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các trương hiện nay. Có thể thít kế BĐTD trên giấy, bìa, bảng phụ hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm bản đồ tư duy. Với những trường có điều kiện công nghệ thông tin tốt, có thể cài đặt phần mềm Mindmap cho GV, HS sử dụng, bằng cách vào trang wed gõ vào ô “tìm kiếm” cụm từ Mindmap, ta có thể tải về miễn phí ConceptDraw MINMAD 5 professional, việc sử dụng phần mềm này khá đơn giản.
2. Một số hình thức ứng dụng bản đồ tư duy để hỗ trợ quá trình dạy học
2.1. Giáo viên sử dụng BĐTD để hỗ trợ quá trình dạy học:
 a.  Dùng BĐTD để dạy bài mới: Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu kiến thức của bài mới rồi yê u cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em để các em tìm ra các tự liên quan đến từ khoá đó và hoàn thiện BĐTD. Qua BĐTD đó HS sẽ nắm được kiến thức bài học một cáhc dễ dàng.
Ví dụ:
Khi học bài “ So sánh” ( Môn Ngữ văn lớp 6), đầu giờ GV cho từ khoá “ So sánh” rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cáhc đặt câu hỏi gợi ý cho các em để các em có thể vẽ tiếp các nhánh con và bổ sung dần các ý nhỏ ( nhánh con cấp 2, cấp 3), sau khi các nhóm HS vẽ xong, cho một số em lên trình bày trước lớp để các học sinh khác bổ sung ý. Giáo viên kết luận qua đó giúp các em tự chiế lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất hiệu quả, đồng thời kích thích hứng thú học tập của học sinh.
( Sơ đồ minh hoạ)
Bản đồ tư duy bài “So sánh” - Ngữ Văn 6ồ t  
b. Dùng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến thức sau mỗi chương, phần: Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ BĐTD. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng.
Ví dụ:
 Khi dạy phần từ loại Tiếng Việt, cho học sinh vẽ BĐTD sau mỗi bài học để mỗi em có 1 tập BĐTD về các từ loại Tiếng Việt: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ, quan hẹ tự, trợ từ, thán từ. Lên đến lớp 9, trong bài “ Tổng Kết ngữ pháp”, học sinh có thể dễ dàng tổng hợp kiến thức về từ loại Tiếng Việt bằng  BĐTD dựa vào tập BĐTD đã có. Sau khi có một học sinh hoặc một nhóm học sinh vẽ xong BĐTD sẽ cho một học sinh khác, nhóm khác nhận xét, bổ sung  Có thể cho học sinh vẽ thêm các đường, nhánh khác và ghi thêm các chú thích rồi thảo luậ n chung trước lớp để hoàn thiện, nâng cao kĩ năng vẽ BĐTD cho các em.
Bản đồ tư duy bài “Tổng kết ngữ pháp”- Ngữ văn 9
2.2. Học sinh học tập độc lập, sử dụng BĐTD để hỗ trợ học tập, phát triển tư duy lôgic.
- Học sinh tự có thể sử dụng BĐTD để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm hiểu trước bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ BĐTD trên giấy, bìa hoặc để tư duy một vấn đề mới. qua đó phát triển khả năng tư duy lôgic, củng cố khắc sâu kiến thức, kĩ năng ghi chép.
3. Một số biện pháp ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở trường THCS Xương Lâm
3.1. Nâng cao nhận thức của GV và HS về vai trò của BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học
  Nhà trường đã tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn để tuyên truyền, giới thiệu cho giáo viên về vai trò, tác dụng của BĐTD trong hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Từ đó giáo viên nâng cao nhận thức và tuyên truyền, phổ biến tới học sinh theo môn học của mình.
3.2. Bồi dưỡng, nâng cao nhận thức của giáo viên về đổi mới phương pháp dạy học.
- Quán triệt quan điểm chỉ đạo về đổi mới phương pháp dạy học;
- Nắm vững cấu trúc chương trình, SGK mới;
- Nắm vững nội dung đổi mới phương phápdạy học;
- Tích cức dự giờ thăm lớp, rút kinh nghiệm với đòng nghiệp;
- Tham dự sinh hoạt chuyên môn cụm, tổ đầy đủ, hiệu quả.
3.3. Bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng sử dụng BĐTD cho giáo viên
 Người giáo viên có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Do đó muốn ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp hiệu quả thì người giáo viên phải có kiến thức và kĩ năng sử dụng BĐT tốt.
Vì vậy, ngay từ ban đầu nhà trường đã rất coi trọng việc tập huấn chuyên môn cho giáo viên. Cử cán bộ cốt cán có năng lực chuyên môn vững, có kiến thức về công nghệ thông tin đi dự hội thảo, học hỏi kiến thức, kĩ năng về ứng dụng BĐTD để về hướng dẫn cho giáo viên trong trường.
4. Kết quả ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS Xương Lâm
Sau một thời gian ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng ở trường THCS Xương Lâm đã bước đầu có những kết quả khả quan. Giáo viên đã nhận thức được vai trò tích cực của ứng dụng BĐTD trong hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Nhiều giáo viên đã biết sử dụng BĐTĐ để dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học, tổng hợp kiến thức chương, phần. Học sinh hiểu bài nhanh hơn, hiệu quả hơn, Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng BĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Một số HS trung bình đã biết dùng BĐTD để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản.
- Đối với môn Ngữ văn, học sinh rất hào hứng trong việc ứng dụng BĐTD để ghi chép bài nhanh, hiệu quả, đặc biệt là trong học Tiếng Việt.
5. Bài học kinh nghiệm
* Tổ chuyên môn:
- Bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cốt cán về đổi mới PPDH.
- Tích cực dự giờ thăm lớp, rút kinh nghiệm, tổ chức sinh hoạt chuyên môn đúng kế hoạch;
- Thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt chuyên môn;
- Đánh giá, xếp loại giáo viên đúng năng lực, trình độ và đề xuất khen thưởng kịp thời những giáo viên tích cực trong đổi mới PPDH.
Quảng Hợp ngày 28 tháng 09 năm 2011
 Người làm bản thu hoạch
 Bùi Xuân Thái

Tài liệu đính kèm:

  • docdoi moi phuong phap day hoc mon ngu van.doc