Bài soạn Ngữ văn 8 - Tuần 13 - Năm học 2012-2013 - Phan Văn Rơi

Bài soạn Ngữ văn 8 - Tuần 13 - Năm học 2012-2013 - Phan Văn Rơi

A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:

1. Kiến thức:

 - HS nắm được những nét đặc sác về nghệ thuật thể hiện tấm lòng yêu nước, căm thù giặc, ý chí quyết tâm kháng chiến chống thực dân Pháp cao độ của Lê Thành Phương mà cũng là của nhân dân Phú Yên thời bấy giờ.

- Tìm hiểu về tác giả Lê Thành Phương.

2. Kỹ năng:

 - Sưu tầm , tuyển chọn tư liệu văn thơ viết về địa phương .

- Đọc hiểu và thẩm bình văn thơ viết về địa phương .

- Biết cách thống kê tư liệu , tthơ văn viết về địa phương .

B. CHUẨN BỊ CỦA THẦY VÀ TRÒ:

- Giáo viên: Soạn bài.

- Học sinh: Trả lời các câu hỏi 1,2,3 tr.36 Tài liệu NVĐP.

 

doc 31 trang Người đăng tranhiep1403 Lượt xem 4378Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài soạn Ngữ văn 8 - Tuần 13 - Năm học 2012-2013 - Phan Văn Rơi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tuần 13
Tiết 49
Ngày soạn: 11/11/2012
Ngày dạy: 12/11/2012
HỊCH CHIÊU QUÂN
	 Lê Thành Phương ( 1825 – 1887 )
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
1. Kiến thức:
	- HS nắm được những nét đặc sác về nghệ thuật thể hiện tấm lòng yêu nước, căm thù giặc, ý chí quyết tâm kháng chiến chống thực dân Pháp cao độ của Lê Thành Phương mà cũng là của nhân dân Phú Yên thời bấy giờ.
- Tìm hiểu về tác giả Lê Thành Phương.
2. Kỹ năng: 
 - Sưu tầm , tuyển chọn tư liệu văn thơ viết về địa phương . 
- Đọc hiểu và thẩm bình văn thơ viết về địa phương .
- Biết cách thống kê tư liệu , tthơ văn viết về địa phương .
B. CHUẨN BỊ CỦA THẦY VÀ TRÒ:
- Giáo viên: Soạn bài.
- Học sinh: Trả lời các câu hỏi 1,2,3 tr.36 Tài liệu NVĐP.
C. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY - HỌC:
	1. Ổn định tổ chức:
	2. Kiểm tra bài cũ: ( 3 phút )
	3. Bài mới:	
Hoạt động 1: Giới thiệu bài
Mục tiêu: Tạo tâm thế, định hướng chú ý cho HS.
Phương pháp: Thuyết trình.
Thời gian: 2 phút
Những vấn đề cấp bách của xã hội hiện tại, mọi người cần phải quan tâm để giải quyết. Nhưng những việc đã xảy ra trong quá khứ, chúng ta cũng không được lãng quên. Chúng ta hãy cùng nhau hồi tưởng lại tấm lòng của Lê Thành Phương, người thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp ở Phú Yên qua bài Hịch chiêu quân.
Hoạt động 2: Tìm hiểu chung
Mục tiêu: HS nắm được những nét khái quát nhất về tác phẩm.
Phương pháp: Thuyết trình, vấn đáp, thực hành.
Thời gian: 10 phút
Hoạt động của thầy
Hoạt động của trò
Nội dung
Khắc sâu những nét chính về tác giả.
Đọc tiểu sử tác giả.
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
- Sinh 1825, tại làng Mỹ Phú, tổng Xuân Vinh ( nay là thôn Mỹ Phú, xã An Hiệp, Tuy An, Phú Yên ) trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước.
- Năm 1885, hưởng ứng phong trào Cần Vương, Lê Thành Phương đã chiêu tập nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa, tạo nên sự thắng lợi của phong trào Cần Vương trên địa bàn Nam Trung Bộ.
- Năm 1887 bị kết án tử hình và đem ra xử chém tai bến đò Cây Dừa ( nay là thôn Hòa Bình, xã An Dân, Tuy An ).
Nhắc HS đọc kĩ các chú thích để hiểu kĩ hơn văn bản.
HỊCH CHIÊU QUÂN
	Lê Thành Phương
Nước nhà đang gặp cơn nguy biến
Bị man di Pháp tặc xâm lăng
Bốn phương khói lửa tưng bừng
Dưới sông cá khóc, trên rừng chim than
Cửu trùng xa giá ngộ gian nan
Tứ hải nhân dân lâm thủy hỏa
Hỡi chư tướng
Hỡi sĩ dân
Đồng tâm đứng cả dậy!
Đồng tâm giết giặc,
Hưởng ứng Văn thân cùng Nam Bắc
Chí Cần Vương quét sạch sài lang
Gươm này diệt nịnh trừ gian
Cờ đây chung phất phá tan quân thù
Vững chí khí bất nhu bất nhược
Đoạn tuyệt ngay nếp hủ cầu an
Nước nhà gặp lúc nguy loàn
Phải lo cứu gấp, phải toan báo đền 
Chớ học thói Văn Tường phản nghịch 
Bán tổ tông kiếm kế sinh nhai
Đừng cạn nghĩ, chớ hẹp hòi
Vinh gia, phì kỉ, muôn đời hay chi
Tiêu diệt loài lang sói man di
Tranh độc lập, tự do dân tộc
Chớ hở cơ, đừng dục tốc
Phải rập ràng cứu quốc tiến dần lên
Quyết làm cho quốc thái dân yên
Quyết giữ gìn non vàng, biển bạc
Chớ để giống nòi Hồng Lạc
Làm tôi đòi, lệ thuộc ngoại bang
Nội tướng sĩ, ngoại cập dân gian
Đồng tâm chí, nhất tề lĩnh hội
 (1880-1885)
Đọc bài hịch.
Đọc các chú thích 1,2,10,26,27.
2. Đọc- Tìm hiểu chú thích:
Bố cục: 2 đoạn:
 - Đoạn 1: Tình hình đất nước (6 câu đầu)
 - Đoạn 2: Kêu gọi mọi người
Tìm các từ gốc Hán và các từ Hán -Việt trong bài hịch.
3. Thể loại:
Hịch: lối văn cổ nhằm kêu gọi và động viên chiến đấu. Bài hịch này được viết theo thể văn vần.
Hoạt động 3: Đọc- hiểu văn bản
Mục tiêu: HS nắm được giá trị nội dung, nghệ thuật văn bản , liên hệ thực tiễn.
Phương pháp: Vấn đáp tìm tòi; thuyết trình; kĩ thuật động não.
Thời gian: 20 phút.
Sức thuyết phục của bài hịch này như thế nào? Vì sao?
Thuyết phục mạnh mẽ người đọc nhờ vào cách trình bày bài hịch và nhiệt tình của tác giả.
II. Đọc-hiểu văn bản:
1. Tình hình đất nước: (6 câu đầu) 
Tác giả đã sử dụng những chi tiết, hình ảnh và biện pháp nghệ thuật nào để khái quát tình hình đất nước lúc bấy giờ? 
Tình hình đất nước được thể hiện trong đoạn hịch tác động như thế nào đến những người yêu nước?
Các chi tiết : khói lửa tưng bừng, cá khóc, chim than, cửu trùng thuỷ hoả ® đất nước đang hồi nguy biến.
-Câu thơ nói về tình cảnh đất nước:
“Bốn phương khói lửa tung bừng
Dưới sông cá khóc, trên rừng chim than” 
Biện pháp tu từ nhân hoá, phép đối; khả năng gợi hình ảnh của từ ngữ... tạo nên sức gợi cảm lớn về nỗi thống khổ của nhân dân ta dưới ách áp bức của giặc xâm lược. ( Liên hệ bài “Chạy giặc”- Nguyễn Đình Chiểu ).
-Hai câu thơ:
“Cửu trùng xa giá ngộ gian nan
Tứ hải nhân dân lâm thủy hải”
Khái quát tình hình triều đình, nhân dân. Tác động mạnh vào long trung nghĩa của những người yêu nước ( trung với vua, yêu dân, tình thần “trí quân trạch dân” của nghĩa sĩ phong kiến.
Trong bài hịch, tác giả dùng nhiều từ Hán Việt và từ gốc Hán. Dùng như thế có tác dụng gì?
Quyết tâm chống giặc được biểu hiện như thế nào?
Thể hiện thái độ trang trọng, mạnh mẽ.
2. Kêu gọi đứng lên chống Pháp: (đoạn còn lại) 
 Tác giả sử dụng nhiều từ ngữ Hán Việt để bộc lộ một cách trang trọng và mạnh mẽ quyết tâm đuổi giặc với những biểu hiện: vững vàng ý chí; không cầu an hưởng 
lạc; không vì lợi riêng mà bán rẻ đất nước, làm tay sai cho giặc; phải biết đoàn kết đồng lòng.
Hoạt động 4: Tổng kết
Mục tiêu: Hs nắm được nọi dung và ý nghĩa văn bản
Phương pháp: Vấn đáp,thuyết trình,
Thời gian: 5 phút	
Ý chí quyết tâm chống Pháp cao độ được biểu hiện trong bài hịch như thế nào?
Ông khẳng khái nói thẳng với tên Việt gian Trần Bá Lộc câu nói bất hủ của người xưa: “Ninh thọ tử, bất ninh thọ nhục” ( thà chết chứ không sống nhục )
HS trả lời 
Ghi nhớ tr.36 Tài liệu NVĐP.
III. Tổng kết : 
Tính chất, nội dung của lời kêu gọi vừa khái quát, vừa cụ thể:
- Kêu gọi vững vàng ý chí, không cầu an hưởng lạc.
- Không vì lợi riêng mà bán rẻ đất nước, làm tay sai cho giặc.
- Nắm thời cơ, đoàn kết đồng lòng.
1/ Đọc lại bài hịch , rút ra những câu tiêu biểu thể hiện các nội dung : 
- Nỗi thống khổ của nhân dân dưới ách thống trị của Thực dân Pháp .
- Lòng căm thù giặc cao độ của tác giả .
- Ý chí quyết tâm chống giặc .
2 / Đọc giọng mạnh mẽ ,dứt khoát
HS đọc .
HS đọc .
IV. Luyện tập :
Hoạt động 5: Hướng dẫn tự học 
Mục tiêu: HS khái quát và khắc sâu kiến thức vừa được học.
Phương pháp: Vấn đáp tái hiện, thuyết trình.
Thời gian: 5 phút.
Bài vừa học:
- Học ghi nhớ + xem bài ghi. 	
- Học thuộc bài thơ.
 b. Bài sắp học: “Dấu ngoặc kép”
Tiết 50
Ngày soạn: 11/11/2012
Ngày dạy: 13/11/2012
DẤU NGOẶC KÉP
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
1. Kiến thức:
Công dụng của dấu ngoặc kép.
2. Kỹ năng: 
- Sử dụng dấu ngoặc kép.
- Sử dụng phối hợp dấu ngoặc kép với các dấu khác.
- Sửa lỗi về dấu ngoặc kép
B. CHUẨN BỊ CỦA THẦY VÀ TRÒ:
 GV: giáo án, bảng phụ
 HS: chuẩn bị bài.
C. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY - HỌC:
	1. Ổn định tổ chức:
	2. Kiểm tra bài cũ: ( 3 phút )
	Nêu tác dụng của dấu ngoặc đơn và dấu hai chấm? Cho ví dụ. 
( Dấu ngoặc đơn:Dùng để đánh dấu phần chú thích ( giải thích, thuyết minh, bổ sung thêm)
Dấu hai chấm:
- Đánh dấu phần giải thích, thuyết minh cho một phần trước đó.
- Đánh dấu lời dẫn trực tiếp ( dùng với dấu ngoặc kép) hay lời đối thoại (dùng với dấu gạch ngang).
	3. Bài mới:	
Hoạt động 1: Giới thiệu bài
Mục tiêu: Tạo tâm thế, định hướng chú ý cho HS.
Phương pháp: Thuyết trình.
Thời gian: 2 phút
Trong ngôn ngữ của chúng ta, ngoài hệ thống các thanh, còn có một hệ thống các dấu. Giờ học trước các em đã được tìm hiểu về dấu ngoặc đơn và dấu hai chấm. Giờ học hôm nay các em sẽ được tìm hiểu về dấu ngoặc kép.
Hoạt động 2: Dấu ngoặc kép
Mục tiêu: Giúp HS nắm được công dụng của dấu ngoặc kép được sử dụng trong câu là để đánh dấu từ ngữ, câu hoặc đoạn dẫn trực tiếp; từ ngữ được hiểu theo nghĩa đặc biệt hay hàm ý mỉa mai; tên tác phẩm, tờ báo được dẫn.
Phương pháp: Vấn đáp gợi tìm, thảo luận nhóm, thuyết trình.
Thời gian: 15 phút
Hoạt động của thầy
Hoạt động của trò
Nội dung
HD Học sinh tìm hiểu công dụng của dấu ngoặc kép.
Giáo viên đưa ví dụ lên bảng phụ.
Gọi Học sinh đọc.
Dấu ngoặc kép trong những đoạn trích sau đây dùng để làm gì ?
Học sinh đọc.
- Dùng để đánh dấu:
a. Lời dẫn trực tiếp ( 1 câu nói của Găng - đi ).
b. Từ ngữ hiểu theo nghĩa đặc biệt, nghĩa được hình thành trên cơ sở phương thức ẩn dụ. Dùng từ ngữ " dải lụa" để chỉ chiếc cầu ( nhấn mạnh ).
c. Từ ngữ có hàm ý mỉa mai.
d. Đánh dấu tên của các vở kịch.
I. Công dụng:
1. Ví dụ:
Theo em dấu ngoặc kép có tác dụng gì ?
 Học sinh đọc ghi nhớ
2. Kết luận:
Công dụng của dấu ngoặc kép:
- Đánh dấu từ ngữ, câu, đoạn dẫn trực tiếp;
- Đánh dấu từ ngữ được hiểu theo nghĩa đặc biệt hay có hàm ý mỉa mai;
- Đánh dấu tên tác phẩm, tờ báo, tập san được dẫn.
Hoạt động 3: Luyện tập
Mục tiêu: : HS vận dụng được kiến thức mới để xác định được công dụng của dấu ngoặc kép trong từng câu văn cụ thể; biết đặt dấu hai chấm, dấu ngoặc kép vào chổ thích hợp.
Phương pháp: Hoạt động nhóm. 
Thời gian: 20 phút
III. Luyện tập :
Hướng dẫn học sinh làm bài tập 
HS làm bài
Bài tập 1:
Giải thích công dụng của dấu ngoặc kép.
Dùng để đánh dấu:
Đánh dấu câu nói được dẫn trực tiếp.
Đánh dấu cho từ ngữ hàm ý mỉa mai.
Đánh dấu từ ngữ được dẫn trực tiếp, dẫn lại lời của người khác.
Đánh dấu từ ngữ được dẫn trực tiếp và cả hàm ý mỉa mai.
Đánh dấu từ ngữ được dẫn trực tiếp từ hai câu thơ của Nguyễn Du.
Hướng dẫn học sinh làm bài tập
HS làm bài
Bài tập 2:
Đặt dấu hai chấm sau từ - cười bảo: Dấu ngoặc kép ở “cá tươi” và “tươi”
Đặt dấu hai chấm sau từ - chú Tiến Lê: Dấu ngoặc kép ở “Cháu hãy vẽ cái gì thân thuộc nhất với cháu”.
Đặt dấu hai chấm sau “bảo hắn”, dấu ngoặc kép phần còn lại: “Đây là  đi một sào”.. Cần viết hoa từ “Đây”.
Hướng dẫn học sinh làm bài tập
HS làm bài
Bài tập 3: 
Hai câu có ý nghĩa giống nhau, nhưng dùng dấu câu khác nhau.
Dùng dấu hai chấm và dấu ngoặc kép để đánh dấu lời dẫn trực tiếp, dẫn nguyên văn lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Không dùng dấu hai chấm và dấu ngoặc kép như ở đoạn a vì câu nói đó không được dẫn nguyên văn (nó chỉ là lời dẫn gián tiếp).
Hướng dẫn học sinh làm bài tập
Bài tập 4:
Thế mà nghe xong câu chuyện này, qua 1 thoáng liên tưởng, tôi bỗng “sáng mắt ra”. (Bài toán dân số) à tác dụng: đánh dấu từ ngữ hiểu theo nghĩa đặc biệt.
Theo thống kê của hội nghị Cai-Rô họp ngày 5-9-1994 thì tỷ lệ sinh con của phụ nữ Ấn Độ là 4,5. (Bài toán dân số) à dấu ngoặc đơn: đánh dấu phần bổ sung thêm.
Ngày trước Trần Hưng Đạo căn dặn nhà vua: “Nếu giặc đánh như vũ bão thì không đáng sợ, đáng sợ là giặc nhấm như tằm ăn dâu” à Dấu hai chấm – đánh dấu lời dẫn trực tiếp
Hướng dẫn học sinh làm bài tập
Bài tập 5: HS tự phát hiện.
Hoạt động 4: Hướng dẫn tự học 
Mục tiêu: HS khái quát và khắc sâu kiến thức vừa được học.
Phương pháp: Vấn đáp tái hiện, thuyết trình.
Thời gian: 5 phú ... hắn không ai chối cãi. Nếu mặc áo đầm, hay quần tây mà đội nón không tạo được nét đẹp riêng. 
Nón dùng để che nắng mưa, có lịch sử lâu đời đã khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khỏang 2500-3000 năm. Nón lá gần với đời sống tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng và thực tiễn với đời sống nông nghiệp, một nắng hai sương, trên đồng lúa, bờ tre lúc nghỉ ngơi dùng nón quạt cho mát mẻ ráo mồ hôi. Nón lá ở Việt Nam có nhiều loại khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử: 
Nón dấu : nón có chóp nhọn của lính thú thời xa xưa 
Nón gò găng hay nón ngựa: sản xuất ở Bình Định làm bằng lá dứa đội khi cỡi ngựa 
Nón rơm :  Nón làm bằng cộng rơm ép cứng 
Nón quai thao : người miền Bắc thường dùng trong lễ hội 
Nón cời  :  nón rách 
Nón Gõ : Nón gõ làm bằng tre ghép cho lính hồi xưa 
Nón lá Sen: cũng gọi là nón liên diệp 
Nón thúng: thứ nón lá tròn bầu giống cái thúng. 
Nón khua :Viên đẩu nón của người hầu các quan xưa 
Nón chảo : thứ nón mo tròn lên như cái chảo úp nay ở Thái Lan còn dùng 
Nón cạp: Nón xuân lôi đại dành cho người có tang 
Nón bài thơ : ở Huế thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hay một vài câu thơ v.v 
Người Việt từ nông thôn cho tới thành thị đều dùng nón lá, nhưng ít người để ý nón lá có bao nhiêu vành, đường kính rộng bao nhiêu cm. ? Nón lá tuy giản dị rẻ tiền nhưng nghệ thuật làm nón cần phải khéo tay. Nghề chằm nón không chỉ dành riêng cho phụ nữ mà cả những người đàn ông trong gia đình cũng có thể giúp chuốt vành, lên khung nón. Với cây mác sắc, họ chuốt từng sợi tre thành 16 nan vành một cách công phu ; sau đó uốn thành vòng thật tròn trịa và bóng bẩy. Người phụ nữ thì chằm nức vành . Để có được lá đẹp, họ thường chọn lá nón non vẫn giữ được màu xanh nhẹ, ủi lá nhiều lần cho phẳng và láng. Khi xây và lợp lá, người ta phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp để nón có thể thanh và mỏng. Nghề làm nón lá thường sản xuất từ miền Bắc và miền Trung trong các làng quê sau các vụ mùa, ở các tỉnh miền Nam không thấy người ta chằm nón ? 
Vật liệu làm nón tuy đơn sơ nhưng khó tìm loại lá làm nón, lá mọc ở những vùng núi, sau nầy người ta đem giống về trồng ở vườn, có tên Du Qui Diệp là lá làm tơi thời gian văn minh chưa phát triển, người ta dùng loại lá nầy làm cái tơi để mùa đông chống mưa gió. Một loại khác là Bồ Qui Diệp là loại mỏng và mền hơn để làm nón lá. 
Ngày nay dù đã phát triển nhưng trên những cánh đồng lúa xanh tươi ngoài Bắc, trong những trưa hè nắng gắt, người ta còn dùng lá tơi để che nắng, giống như con công đang xòe cánh . 
Người ta chặt lá nón non còn búp, cành lá nón có hình nan quạt nhiều lá đơn chưa xoè ra hẳn phơi khô, cột lại thành từng bó nhỏ gánh bán cho những vùng quê có người chằm nón. Ở Quảng Nam ngày xưa vùng Bà Rén chuyên buôn bán nón lá, từ đó phân phối đến các chợ như chợ Hội An, có khu bán nón lá nhiều loại 
Lá non lúc khô có màu trắng xanh, người mua phải phơi lá vào sương đêm cho lá bớt độ giòn vì khô, mở lá từ đầu tới cuồng lá, cắt bỏ phần cuối cùng, dùng lưỡi cày cũ hay một miếng gan, đặt trên nồi than lửa nóng đỏ, dùng cục vải nhỏ độn giống như củ hành tây, người ta đè và kéo lá nón thẳng như một tờ giấy dài màu trắng, có nổi lên những đường gân lá nhỏ, lựa những lá đẹp để làm phần ngoài của nón. Người ta dùng cái khung hình giống như Kim Tự Tháp Ai Cập, có 6 cây sườn chính, khoảng cách giống nhau để gài 16 cái vành nón tròn lớn nhỏ khác nhau lên khung. Cái khung nầy phải do thợ chuyên môn làm kích thước đúng cỡ khi lợp lá và chằm nón xong, tháo nón ra dễ dàng. Nón thường chỉ 16 vành tròn làm bằng tre cật vót nhỏ đều nhau nối lại, Nón bài thơ nhẹ mỏng chỉ 2 lớp lá trong chen hình cảnh và các câu thơ, nón thường độ bền lâu hơn dày có 3 lớp phần trong lót thêm loại lá đót, (loại cây nầy giống cây sậy, khi trổ bông người ta lấy bông làm chổi) Chằm xong nón tháo khỏi khung, cắt lá thừa nức miệng nón và làm quai, nón rộng đường kính thường 41 cm, người ta phết phiá ngoài lớp mỏng sơn dầu trong suốt nước mưa không thấm qua các lỗ kim vào bên trong. Để có được một chiếc nón, phải trải qua 15 khâu, từ lên rừng hái lá, rồi sấy lá, mở, ủi, chọn lá, xây độn vành, chằm, cắt lá, nức vành, cắt chỉ... 
Thời gian chưa có chỉ cước người ta dùng bẹ lá cây thuộc loại thơm (hùm) tước lấy phần tơ ngâm nước vài ba ngày cho nát phần thịt của lá, dùng bàn chải, chải lấy phần tơ dùng làm chỉ để chằm nón, hay dùng chỉ đoác. Nhưng sau nầy phát triển người ta dùng cước nhỏ bằng nylon, chằm nón có đường nét thanh nhã hơn. Nón lá đã đi vào thi ca bình dân Việt nam 
Nón em chẳng đáng mấy đồng, 
Chàng mà giật lấy ra lòng chàng tham 
Nón em nón bạc quai vàng 
Thì em mới dám trao chàng cầm tay 
Tiếc rằng vì nón quai mây 
Nên em chẳng dám trao tay chàng cầm 
Nón quai thao, hay nón thúng các cô gái Bắc thời xưa chưa chồng thường dùng, ngày nay đến Hà Nội không còn thấy ai đội nón quai thao, trên đường phố cổ trầm mặc dưới bóng cây cổ thụ, thiếu nữ Hà Nội che dù màu, đội mũ lát, đội mũ tân thời, nhưng vào thăm Văn Miếu sẽ thấy trình diễn văn hoá, hát quan họ, các cô đều trang sức giống như thời xưa với chiếc nón quai thao ( hình trên trong Văn Miếu) 
Thưở xưa con gái sau khi lập gia điønh, bổn phận làm vợ, làm mẹ, họ chỉ chú trọng đến niềm vui tận tụy làm tròn bổn phận trong gia đình, xao lãng những vẻ đẹp bề ngoài.. 
Chưa chồng nón thúng, quai thao 
Chồng rồi, nón rách, quai nào thì quai 
Chửa chồng, yếm thắm, đeo hoa 
Chồng rồi, hai vú bỏ ra tầy giành. 
Túa ống tơ ngà tha thướt gió 
Vàng vàng lá lụa nắng tươi xinh 
Khuôn hoa e lệ trong khuôn nón 
Say mắt chàng trai tiếc gửi tình 
Nhung dép cong nghiêm bước thẳng đường 
Đâu ngờ tơ nón gió vương vương 
Chàng về, mắt dắm sầu xa vắng 
Cả một trời xuân nhạt nắng hường 
                            Chiếc nón quai Thao Anh Thơ 
Thân phận của những bóng hồng khi về chiều nhan sắc tàn phai 
Còn duyên nón cụ quai tơ 
Hết duyên nón lá quai dừa cũng xong 
Dáng dấp con gái Việt Nam mềm mại, dịu dàng, nếu trên đầu nghiêng nghiêng vành nón trắng. Nụ cười, ánh mắt giấu sau vành nón ấy mới cơ hồ e ấp, rạo rực vì những bâng khuâng .. . 
Mỗi thiếu nữ đều có một cái duyên để làm say đắm người khác phái. Nhưng tựu trung, nhan sắc của các nàng cũng không ngoài những điều đã được ca dao truyền tụng, Có nàng đẹp nhờ mái tóc thề hay cắt ngắn, đôi chân mày cong vòng như vầng trăng non dưới vành nón lá : 
Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón 
Chiều mùa thu mây che có nắng đâu 
Nắng sẽ làm phai mái tóc xanh màu 
Sẽ làm khô làn môi en dịu ướt 
Còn ta mắt anh.. 
Có sao đâu mà em phải cúi đầu từ khước 
Nếu nghiêng nón có nghĩa là từ khước 
Thì mười ngón tay em sao bỗng quấn quít đan nhau 
Nửa vầng má em bỗng thắm sắc hồng đào 
Đôi chân bước ..anh nghe chừng sai nhịp. 
                                                             Thu Nhất Phương 
Ở Huế, có nhiều vùng chằm nón nổi tiếng từ xa xưa cho đến bây giờ như: Phú Hồ, Phước Vĩnh, Dạ Lê, Triều Sơn, Nam Phổ, Kim Long, Dương Nỗ, Tân Mỹ, Hương Sơ, Mỹ Lam, làng Chuồn, bên dòng sông Như YÙ, thuộc xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế làm nón bài thơ dáng thanh mảnh, độ mỏng, màu nón nhã nhặn người ta còn cắt những bức tranh với chùa Linh Mụ, cầu Trường Tiền, con đò trên sông Hương... và đặc biệt nhất là vài câu thơ chất chứa tâm hồn xứ Huế 
Sông Hương lắm chuyến đò ngang 
Chờ anh em nhé, đừng sang một mình 
                                                  Ca dao 
Sao anh không về thăm quê em 
Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên 
Bàn tay xây lá, tay xuyên nón 
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên 
                                               Nguyễn Khoa Điền 
Tà áo dài trong trắng nhẹ nhàng bay 
Nón bài thơ e lệ nép trong tay 
                                                 Bích Lan 
Những chiếc nón bài thơ thường trở thành vật "trang sức" của biết bao thiếu nữ. lựa nón, lựa quai, cũng là một thú vui nên không ít người đã kỳ công đến tận nơi làm nón để đặt cho riêng mình với dòng thơ yêu thích. Buổi tan trường, các con đường bên sông Hương như dịu lại trong nắng hè oi ả bởi những dáng mảnh mai với áo dài trắng, nón trắng và tóc thề. 
Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ 
Ngàn thông núi Ngụ đứng như mơ 
Gió cầu vương áo nàng tôn nữ 
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ 
Nón bài thơ hiện hữu trên khắp nẻo đường và trở nên gần gũi, thân quen trong cuộc sống thường nhật của phụ nữ Huế, dùng nón lá nâng hay đựng xoài, cũng tạo nên nét đẹp mỹ miều 
Anh về Bình Định ba ngày 
Dặn mua chiếc nón lá dày không mua 
Nón bài thơ đặc sản Huế nón Gò Găng ở Bình Định còn gọi là nón ngựa làm bằng vành tre cật, chuốt nhỏ như tăm, đan thành ba lớp mê sườn; bên ngoài phủ lớp lá kè non, chằm bằng những đường chỉ tàu trắng muốt và đều đặn. Trên đỉnh chóp được gắn chụp bạc hoặc đồi mồi có chạm trổ long-lân-qui-phụng. Quai nón được làm bằng lụa xanh hoặc đỏ, bản rộng và đều người ta chằm một chiếc nón ngựa phải mất cả tháng trời dày công nhọc sức. Vì vậy giá thành rất đắt, nó chỉ dành cho những người cao sang quyền quí, những chức sắc quan lại của triều đình. Dần dần theo nhu cầu của giới bình dân, nón ngựa được cải biên thành ngựa đơn rồi nón buôn, nón chũm, rẻ hơn nhiều. Các loại này đều không có chụp bạc, nó được thay bằng những tua ngũ sắc ở chóp nón cho đẹp. Ở các vùng làm nón, ngày cưới, nhà giàu rước dâu bằng kiệu, chàng rể thì đội nón đi ngựa; còn những nhà nghèo cũng ráng sắm đôi nón ngựa cho cô dâu chú rể đội đi trong ngày cưới. Vậy nên có câu ca dao: 
Cưới nàng đôi nón Gò Găng 
Xấp lãnh An Thái, một khăn trầu nguồn 
Ngày nay các cô gái làm nón hầu như không còn giữ được phương pháp làm nón ngựa nữa. Họ quen với công đoạn nhanh, giản tiện và dễ tiêu thụ của chiếc nón trắng mảnh mai - một sản phẩm của quá trình cải cách lâu dài. Để làm loại nón này phải qua nhiều công đoạn. Vấn sườn, lợp lá, chèn lá, chằm và nức. Việc làm lá đòi hỏi nhiều tính tỉ mỉ và kinh nghiệm lâu năm 
Nghề nón là thuộc thị trấn Gò Găng, Nhơn Thành - An Nhơn. Nơi đây có một chợ nón lớn họp thường ngày từ 3-4 giờ sáng. Cứ hết một đợt làm được 25-30 chiếc thì bà con các vùng phụ cận lại mang nón đến bán và mua sắm vật liệu cho đợt sau. Mỗi tháng Gò Găng có thể cung cấp cho cả nước 50.000 chiếc nón. Gần đây nón Gò Găng còn được xuất khẩu sang các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia dưới dạng cải biên cho hợp với xứ người. Như vậy, từ vùng núi cao nguyên mưa nguồn gió dữ cho đến các miệt vườn miền Nam 
Nhớ nón Gò Găng 
Vầng trăng đập đá 
Sông dài sóng cả 
Người quân tử, 
Khăn điều vắt vai.. 
Đời sống văn minh, phát triển nhưng nón lá Việt nam vẫn thuần túy nguyên hình của nó. Ở bất cứ nơi đâu, từ rừng sâu hẻo lánh, trên đồng ruộng mênh mông, dọc theo sông dài biển cả, đều thấy chiếc nón lá ngàn đời không đổi thay. 

Tài liệu đính kèm:

  • docTuần 13- PVR.doc