PHẦN MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài
Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu, rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam. Trong các môn học, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán mang một ý nghĩa và có vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi vì: Toán học là một khoa học, giải quyết các vấn đề thực tiễn, đòi hỏi tính tư duy và trừu tượng cao, là môn học có khả năng to lớn thực hiện nhiệm vụ trên. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: “Trong các môn khoa học và kỹ thuật, toán học giữ vị trí nổi bật Dù các bạn phục vụ ngành nào, trong công tác nào thì kiến thức và PP toán học cũng rất cần cho bạn”. Để phát huy vai trò to lớn đó, ngay từ bậc tiểu học, người giáo viên phải tổ chức các hoạt động chiếm lĩnh tri thức toán theo hướng phát huy tối đa tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS.
Muốn học sinh Tiểu học học tốt được môn Toán thì mỗi người Giáo viên không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong Sách giáo khoa trong các sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách rập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Nếu chỉ dạy học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. Nó là một trong những nguyên nhân gây ra cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày.
PHẦN MỞ ĐẦU 1 Lí do chọn đề tài Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu, rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam. Trong các môn học, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán mang một ý nghĩa và có vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi vì: Toán học là một khoa học, giải quyết các vấn đề thực tiễn, đòi hỏi tính tư duy và trừu tượng cao, là môn học có khả năng to lớn thực hiện nhiệm vụ trên. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: “Trong các môn khoa học và kỹ thuật, toán học giữ vị trí nổi bật Dù các bạn phục vụ ngành nào, trong công tác nào thì kiến thức và PP toán học cũng rất cần cho bạn”. Để phát huy vai trò to lớn đó, ngay từ bậc tiểu học, người giáo viên phải tổ chức các hoạt động chiếm lĩnh tri thức toán theo hướng phát huy tối đa tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS. Muốn học sinh Tiểu học học tốt được môn Toán thì mỗi người Giáo viên không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong Sách giáo khoa trong các sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách rập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Nếu chỉ dạy học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. Nó là một trong những nguyên nhân gây ra cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày. Yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học môn toán ở bậc Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Vì vậy người giáo viên phải gây được hứng thú học tập cho các em bằng cách lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập. Đối với HS lớp 2 thì việc giúp cho các em có những kiến thức cơ bản, ban đầu về toán học có tính chất như “đường dẫn” giúp cho cả quá trình học toán sau này của các em đạt hiệu quả cao. Muốn dạy tốt toán ở lớp 2 thì điều quan trọng là phải nắm vững nội dung dạy học, phải có những kinh nghiệm giảng dạy và các kĩ năng sư phạm cần thiết. Để giúp học sinh đến lớp với tinh thần sảng khoái, phấn khởi, vui tươi không chỉ do cá nhân học sinh đó phải cố gắng, không chỉ bằng sự động viên, khích lệ của gia đình mà còn nhờ vào sự “khéo léo, tế nhị, lôi cuốn” của giáo viên phụ trách lớp. Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã mạnh dạn đi vào nghiên cứu đề tài: “Tạo hứng thú học tập cho học sinh ở môn toán lớp 2/1 trường TH-THCS Gáo Giồng, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp”. 2 Mục đích và phương pháp nghiên cứu 2.1 Mục đích nghiên cứu Thông qua việc nghiên cứu tôi sẽ tìm ra các biện pháp tương ứng để tạo sự hứng thú học tập cho học sinh ở môn toán lớp 2/1 trường TH-THCS Gáo Giồng. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu lý thuyết Phương pháp phân tích tổng hợp Phương pháp tổng kết kinh nghiệm 3 Giới hạn của đề tài Tìm hiểu một số kiến thức Toán trong Toán 2 Hứng thú học tập trong dạy học Toán 2 lớp 2/1 trường TH-THCS Gáo Giồng, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. 4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là tất cả các học sinh trong lớp 2/1 trường TH-THCS Gáo Giồng, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Hứng thú học tập trong dạy học Toán 2. Nơi nghiên cứu: lớp 2/1 ở trường TH-THCS Gáo Giồng, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. 5 Kế hoạch thực hiện Số thứ tự Nội dung công việc 1 Tìm đọc các tài liệu có liên quan đến kiến thức Toán. 2 Khảo sát kết quả học tập và giảng dạy môn Toán của học sinh và giáo viên thông qua các bài học và dự giờ, trao đổi giữa học sinh và giáo viên. 3 Thu thập số liệu, phân tích đối chiếu và so sánh để tìm ra những sai sót và dự đoán những nguyên nhân + đề ra biện pháp rèn luyện. 4 Rút kinh nghiệm từ nghiên cứu tài liệu và dự giờ giáo viên. PHẦN NỘI DUNG Cơ sở lý luận 1.1 Nội dung chương trình toán 2 1.1.1 Vị trí Bậc Tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Môn Toán cũng như những môn học khác cung cấp những tri thức khoa học ban đầu, những nhận thức về thế giới xung quanh nhằm phát triển năng lực nhận thức, hoạt động tư duy và bồi dưỡng tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người. Chương trình Toán lớp 2 là một bộ phận của Chương trình môn Toán tiểu học và là sự tiếp tục của Chương trình Toán lớp 1. Chương trình này kế thừa và phát triển những thành tựu về dạy học toán lớp 2 ở nước ta; thực hiện những đổi mới về cấu trúc nội dung để tăng cường thực hành và ứng dụng kiến thức mới; quan tâm đúng mức đến đổi mới PPDH nhằm giúp học sinh hoạt động học tập tích cực, linh hoạt, sáng tạo theo năng lực của từng học sinh. Môn toán có khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận lôgíc, thao tác tư duy cần thiết để con người phát triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động trong thời đại mới. 1.1.2 Những yêu cầu cơ bản về kiến thức, kĩ năng lớp 2 cần đạt được - Học đọc, viết các số tự nhiên, tính cộng, trừ có nhớ không quá 2 lần trong phạm vi 1000. - Nhân, chia trong bảng (từ bảng 2 đến bảng 5). - Tiếp tục học một số khái niệm toán, hình học, đơn vị đo( mức độ nâng lên). - Bước đầu làm quen phân số (dạng , với n là các số tự nhiên khác 0 và không vượt quá 5). - Tìm thành phần chưa biết (số hạng, số trừ, số bị trừ, thừa số, số bị chia). - Giải toán có lời văn (1 phép tính dạng nhiều hơn, ít hơn). 1.2 Đặc điểm tâm - sinh lý của HS tiểu học - Ở lứa tuổi Tiểu học cơ thể của trẻ đang trong thời kỳ phát triển hay nói cụ thể là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ không thể làm lâu một cử động đơn điệu, dễ mệt nhất là khi hoạt động quá mạnh và ở môi trường thiếu dưỡng khí. - Học sinh Tiểu học nghe giảng rất dễ hiểu nhưng cũng sẽ quên ngay khi các em không tập trung cao độ. Vì vậy người giáo viên phải tạo ra hứng thú trong học tập và phải thường xuyên được luyện tập. - Học sinh Tiểu học rất dễ xúc động và thích tiếp xúc với một sự vật, hiện tượng nào đó nhất là những hình ảnh gây cảm xúc mạnh. - Trẻ hiếu động, ham hiểu biết cái mới nên dễ gây cảm xúc mới song các em chóng chán. Do vậy trong dạy học giáo viên phải sử dụng nhiều đồ dùng dạy học, đưa học sinh đi tham quan, đi thực tế, tăng cường thực hành, tổ chức các trò chơi xen kẽ... để củng cố khắc sâu kiến thức. Cơ sở thực tiễn 2.1 Cơ sở khoa học Trong hoạt động dạy và học thì không thể không nói đến phương pháp dạy và phương pháp học, hai hoạt động đó diễn ra song song. Nếu chỉ chú ý đến việc truyền thụ kiến thức cho học sinh mà không chú ý đến việc tiếp thu và hình thành kỹ năng và kỹ xảo như thế nào thì quá trình dạy học sẽ không mang lại kết quả cao. Khi học sinh không nhận thức được tri thức khoa học thì sẽ không hình thành được kỹ năng kỹ xảo. Từ đó không nhận thức đúng đắn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn xảy ra những tình huống mà học sinh sẽ không xử lý được, cho dù giáo viên có những phương pháp giảng dạy hay đến đâu đi chăng nữa, mà học sinh không có học tập khoa học thì không giải quyết được nhiệm vụ dạy học. 2.2 Cơ sở thực tiễn Đối với môn Toán là môn học tự nhiên nhưng rất trừu tượng, đa dạng và lôgic, hoàn toàn gắn với thực tiễn cuộc sống hàng ngày. Bởi vậy nếu học sinh không có phương pháp học đúng sẽ không nắm được kiến thức cơ bản về Toán học và đối với các môn học khác nhận thức gặp rất nhiều khó khăn. Môn Toán là một môn học rất quan trọng, nó là chìa khoá để mở ra các môn học khác. Đồng thời nó có khả năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ cần thiết giúp con người vận dụng vào cuộc sống hàng ngày. Trong giờ Toán, bên cạnh việc tìm tòi và sáng tạo phương pháp giảng dạy phù hợp với yêu cầu bài học và đối tượng học sinh. Mỗi giáo viên cần phải giúp các em có phương pháp lĩnh hội tri thức Toán học. Học sinh có phương pháp học Toán phù hợp với từng dạng bài Toán thì việc học mới đạt kết quả cao. Từ đó khuyến khích tinh thần học tập của các em cao hơn. Thực trạng và những mâu thuẫn 3.1 Đối với giáo viên Trong quá trình dạy học có thể nói người giáo viên còn chưa có sự chú ý đúng mức tới việc làm thế nào để đối tượng học sinh nắm vững được lượng kiến thức, đặc biệt là các bài toán điển hình. Nguyên nhân là do giáo viên phải dạy nhiều môn, thời gian dành để nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp còn hạn chế. Do vậy, chưa lôi cuốn được sự tập trung chú ý nghe giảng của học sinh. Bên cạnh đó nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của các bài toán điển hình trong môn Toán cũng chưa đầy đủ. Từ đó dẫn đến tình trạng dạy học chưa trọng tâm, kiến thức còn dàn trải. 3.2 Đối với học sinh Còn nhiều gia đình học sinh chưa thực sự quan tâm tới việc học tập của con cái. Do điều kiện kinh tế còn khó khăn và trình độ học vấn chưa cao nên chưa chú ý đến việc học hành của con cái. Đặc biệt chưa nhận thức đúng vai trò của môn Toán. Học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ của mình, chưa chịu khó, tích cực tư duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những phương pháp học đúng để biến tri thức của thầy thành của mình. Cho nên sau khi học xong bài, các em chưa nắm bắt được lượng kiến thức thầy giảng rất nhanh quên và kĩ năng tính toán chưa nhanh. Nhất là đối với kỹ năng giải toán điển hình. Các biện pháp rèn luyện các kỹ năng thực hành cho học sinh Để giúp học sinh không còn tâm trạng bất an, lo lắng, sợ sệt vì sức ép bài vở, thầy cô, bạn bè thay vào đó là tâm trạng đầy đủ tự tin khi bước chân tới trường, vào lớp, giáo viên cần phải: - Giúp học sinh nắm vững kiến thức trọng tâm, cơ bản của bài học ngay tại lớp. - Xây dựng môi trường học tập thân thiện luôn cho trẻ thấy mỗi ngày đến trường là một niềm vui. - Giáo dục trẻ bằng tình yêu thương. 4.1 Giúp học sinh nắm vững kiến thức trọng tâm, cơ bản của bài học ngay tại lớp a. Giảng kĩ, phân tích rõ ràng từng mảng kiến thức giúp học sinh tiếp thu ngay tại lớp, sử dụng tối đa đồ dùng trực quan. Đồ dùng trực quan giúp học sinh cụ thể hóa những cái quá trừu tượng, làm sinh động nội dung học tập, nâng cao hứng thú học tập, nâng cao lòng tin của học sinh vào khoa học. Ngoài ra, còn giúp cho các em phát triển năng lực nhận thức, đặc biệt là khả năng quan sát, tư duy (phân tích, tổng hợp các hiện tượng, rút ra những kết luận có độ tin cậy...) Đồ dùng trực quan giúp cho giáo viên tiết kiệm được thời gian trên lớp trong mỗi tiết học. Giúp giáo viên điều khiển được hoạt động nhận thức của học sinh, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của các em được thuận lợi và có hiệu suất cao. Lưu ý: khi sử dụng trực quan phải đẹp, sặc sỡ, hấp đẫn. b) Cung cấp cho học sinh một số mẹo nhỏ để giúp giải quyết bài được dễ dàng hơn Khi dạy toán cộng trừ có nhớ trong phạm vi 100 cho học sinh lớp 2 tôi luôn yêu cầu học sinh tính bằng nhiều cách trong đó có ... thật - Nhận xét kết quả chơi, thái độ của người tham dự, giáo viên có thể nêu thêm những tri thức được học tập qua trò chơi, những sai lầm cần tránh. - Thưởng - phạt: Phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi chấp nhận thoải mái và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích học tập của học sinh. Phạt những học sinh phạm luật chơi bằng những hình thức đơn giản, vui (như chào các bạn thắng cuộc, hát một bài, nhảy lò cò ....) * Ví dụ 1: Yêu cầu học sinh xác định và thi nói nhanh phép tính với kết quả tương ứng, tổ chức thi giữa các nhóm. * Ví dụ 2: Bài tập 2 sách giáo khoa trang 95 - Đếm thêm hai số rồi viết số thích hợp vào chỗ trống: Tôi sẽ chuyển thành chò trơi theo kiểu “tiếp sức” trong nhóm (hoặc tổ). - Học sinh sẽ nối tiếp nhau đếm thêm 2 và viết nhanh kết quả tiếp theo. * Ví dụ 3: Khi kiểm tra học sinh ghi nhớ bảng nhân 5 tôi sẽ kiểm tra bất kỳ phép tính nào, chẳng hạn 5 x 4. * Ví dụ 4: Tổ chức thi đua giữa các nhóm Giáo viên đính 4 thẻ từ ghi các phép tính lên bảng cho 4 dãy bàn học sinh thực hiện dưới lớp trong khoảng thời gian 2 phút (tùy theo khả năng của học sinh). Giáo viên hô khẩu lệnh “hết giờ”, dãy bàn nào có học sinh chưa thực hiện xong thì không được tính điểm. Gọi 4 học sinh lên thực hiện chéo các bài tập. Dãy nào nhiều điểm nhất là đội chiến thắng. Đính bảng a. 36-18 b. 75-16 c. 87-29 d. 91-43 Dãy bàn Dãy 1 Dãy 2 Dãy 3 Dãy 4 Trình bày bảng Dãy 4 Dãy3 Dãy 2 Dãy 1 * Ví dụ 5: Tổ chức thi đua giữa các đội qua bảng “Đúng, sai”; trắc nghiệm “A, B, C”. Đội nào đúng nhiều nhất là đội chiến thắng. * Ví dụ 6: Thi quay kim đồng hồ (Tiết 120-121: Bài giờ phút – Thực hành xem đồng hồ) - Mục đích: + Củng cố kĩ năng xem đồng hồ + Củng cố nhận biết các đơn vị thời gian: giờ phút - Chuẩn bị: 4 mô hình đồng hồ - Cách chơi: + Chia lớp thành 4 đội (4 tổ theo lớp học) + Lần thứ nhất: gọi 4 em lên bảng (4 em đại diện cho 4 đội) , phát cho mỗi em 1 mô hình đồng hồ, chuẩn bị quay kim đồng hồ theo hiệu lệnh của giáo viên. Khi nghe giáo viên hô to 1 giờ nào đó, 4 em này ngay lập tức phải quay kim đến đúng giờ đó. Em nào quay chậm nhất hoặc quay sai bị loại khỏi cuộc chơi. + Lần thứ 2: Các đội lại thay người chơi khác + Cứ chơi như vậy 8 – 10 lần. Đội nào còn nhiều thành viên nhất đội đó là đội thắng cuộc. * Lưu ý: Để các em chơi nhanh, vui và thử phản ứng nhanh giáo viên cần chuẩn bị sẵn 1 số giờ viết ra giấy (giờ không phải nghĩ lâu ) để khi hô: 6 giờ, 4 giờ 30 phút, 7 giờ 15 phút, 5 giờ, 15 giờ, 17 giờ, 8 giờ, 1 giờ 30 phút, 2 giờ 15 phút. 10 giờ tối, 12 giờ 30 phút. d) Đối tượng học sinh trung bình, yếu cũng gặp vấn đề về chữ viết. Vì vậy, việc giáo dục những học sinh này rèn chữ, giữ vở cũng vô cùng cần thiết Rèn chữ (cái chính là chữ viết, chữ số phải rõ ràng, ngay ngắn, đúng độ cao, khoảng cách ) có nghĩa là rèn luyện tính kiên nhẫn, cẩn thận cho học sinh. Khi học sinh viết vào vở, chữ viết học sinh rõ ràng, sạch sẽ. Khi đó, học sinh dễ nhìn và làm bài tốt hơn. Chính vì vậy, hai phẩm chất này rất quan trọng đối với quá trình tính toán và hành văn của các em. e) Đặt câu hỏi vừa sức học sinh, câu hỏi tìm hiểu mức độ tiếp thu bài của học sinh Khi giảng dạy một bài hay một hệ thống kiến thức giáo viên nên đặt câu hỏi vừa sức cho từng đối tượng học sinh (giỏi, khá, trung bình, yếu), không nên đặt những câu hỏi quá cao. Sau một bài hay một hệ thống kiến thức giáo viên nên đặt câu hỏi tìm hiểu mức độ tiếp thu bài của cả lớp, chú ý nhiều đến lượng học sinh trung bình yếu: Các em có điều gì thắc mắc không? Các em có chỗ nào cần giải thích lại không? Các em thấy bài học hôm nay thế nào?... Từ các câu hỏi trên, giáo viên mới thu được tín hiệu ngược từ học sinh, biết được học sinh hiểu bài tới đâu, có thích các hoạt động giáo viên tổ chức không? Từ đó, giáo viên điều chỉnh lại phương pháp, hình thức tổ chức lớp cho phù hợp. 4.2 Xây dựng môi trường thân thiện Môi trường dạy học là nơi có các nguồn thông tin phong phú, đa dạng giúp giáo viên và học sinh khai thác, sử dụng môi trường đó vào mục đích giảng dạy, học tập. Vì thế ngoài ảnh Bác Hồ, khẩu hiệu, bàn ghế,giáo viên nên trưng bày thêm hoa, tranh ảnh phục vụ bài học, sản phẩm học sinh tự làm: văn hay, viết chữ đẹp, thủ công, mĩ thuật,... Lớp học phải sạch sẽ, gọn gàng, càng ít bụi càng tốt. Đặc biệt, các sản phẩm của học sinh trung bình, yếu có tiến bộ được ưu tiên. Động tác này giúp đối tượng đó có thêm tự tin, tự hào về bản thân. Học sinh cần được khuyến khích tự tạo ra môi trường học tập trong lớp theo sở thích của các em. Hãy để các em trang trí lớp học bằng tranh ảnh hay các vật trang trí khác để lớp học thật gần gũi và ấm cúng như là góc họp tập ở nhà của các em để tạo thêm hứng thú học tập cho các em. Để có một “Ngôi trường thân thiện” thực sự nếu như chỉ chú trọng đưa vào các hoạt động vui chơi các trò chơi dân gian, tìm hiểu và chăm sóc di tích lịch sử hay các hoạt động ngoại khoá khác thì không đủ. Vì đó cũng chỉ là những hoạt động bổ trợ cho nhiệm vụ chính là học tập của các em. Điều các em cần là môi trường học tập thân thiện, phương pháp học tập và phương pháp giảng dạy thân thiện, các mối quan hệ thân thiện và những sự phục vụ thân thiện của nhà trường. Có như vậy các em mới thấy thật sự thoải mái và yêu mến trường như nhà của mình. Mỗi khi xa trường một ngày các em chỉ mong chóng trở lại trường. Học sinh sẽ gắn bó với trường học và mỗi ngày đến trường mới thực sự là một ngày vui của các em. 4.3 Giáo dục trẻ bằng tình thương Là con người, ai cũng phải mắc khuyết điểm sai lầm, phạm lỗi Học sinh là trẻ thơ, đang trong quá trình phát triển, hình thành nhân cách, việc sai sót, sai phạm là điều không thể tránh khỏi. Trong trường hợp đó giáo viên không nên la mắng, đe dọa, hay xử lí nghiêm khắc dễ gây “hiệu ứng ngược” không đi theo chiều hướng giáo viên mong muốn. Điều quan trọng, giáo viên phải thật bình tĩnh, sửa phạt chứ không xử phạt học sinh. Giáo viên cần giúp học sinh nhận ra lỗi sai, cố gắng phê bình hành vi của trẻ chứ không phê bình trẻ, động viên khen thưởng kịp thời. Giáo dục đạo đức học sinh nhất là học sinh cá biệt là cả một nghệ thuật, đòi hỏi giáo viên phải có tâm huyết, kiên trì, chịu khó tìm tòi và vận dụng một cách sáng tạo vào thực tế đối với từng đối tượng học sinh của mình. Không có công thức nào chung cho chủ nhiệm nhưng cần có cái tâm, lòng nhiệt tình, tình thương yêu và có phương pháp hợp lí thì sẽ đem lại thành công. Mục tiêu chúng ta hướng tới là giáo dục các em thành người, xây dựng cho học sinh tự lực trong học tập, tự quản trong rèn luyện để tự lập trong cuộc sống. Mỗi chúng ta đã chọn cho mình nghề dạy học chúng ta hãy làm hết khả năng của mình vì học sinh chắc chắn sẽ ghi lại trong tâm trí học trò thân yêu những hình ảnh đẹp về cô thầy. Hiệu quả áp dụng Qua gần 2 tháng áp dụng với tư cách dạy trên, khi dạy học trong môn Toán bản thân nhận thấy có nhiều học sinh tiến bộ. Học sinh tích cực, chủ động tìm tòi, sáng tạo xây dựng kiến thức của bài học. Nhờ vậy mà học sinh nắm bài nhanh, nhớ kiến thức lâu hơn, chắc hơn và tự tin hơn. Từ đó học sinh có hứng thú học toán, tạo thành thói quen tự suy nghĩ, chủ động làm bài để tìm ra cách giải hay và nhanh nhất. Tất cả các em đều “học được và được học”. Các em mong đến giờ học để được chơi, được thi tài, được đánh giá lẫn nhau, So sánh với đầu năm học chỉ khoảng lớp tham gia giờ học thì đến nay 100% tham gia tìm hiểu, giải đáp, nêu thắc mắc, Chất lượng học Toán cũng nâng lên rõ rệt. So sánh các bài kiểm tra Toán đầu năm đến nay càng chứng tỏ sự tiến bộ ấy. Tổng số HS Giỏi Khá Trung bình Yếu TS TL % TS TL % TS TL % TS TL % GHKI 20 5 25 10 50 4 20 1 5 CHKI 20 12 60 7 35 1 5 0 0 Tỉ lệ chuyên cần của lớp cũng duy trì tốt. Điều đó chứng tỏ các em hứng thú được đến trường bởi các em cảm nhận “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. KẾT LUẬN Ý nghĩa của đề tài đối với công tác Có thể nói đây là một đề tài thiết thực và gần gũi trong dạy học Toán Tiểu học. Nếu không rèn luyện đúng cách và thường xuyên thì các kỹ năng đó sẽ dần mất đi. Chính điều này đòi hỏi vai trò của người giáo viên trong dạy học không những dừng lại ở việc hình thành kỹ năng thực hành cho học sinh mà phải thật khéo léo giúp các em tiếp tục rèn luyện và phát triển các kỹ năng đó. Vì khi rèn luyện các kỹ năng, hình thành ở học sinh tính cẩn thận, kiên trì, óc sáng tạo, phát triển trí tưởng tượng. Và tạo một tiền đề vững chắc cho việc học sau này của các em. Khả năng áp dụng Trong đề tài, bản thân đã trình bày một số biện pháp thực hành chủ yếu và mức độ tiến hành rèn luyện thông qua các loại bài tập. Đồng thời, bản thân cũng đưa ra một một số biện pháp tạo sự hứng thú trong học toán của học sinh sao cho phù hợp cấp độ phát triển nhận thức của các em. Có thể nói đề tài này là một trong những tài liệu cần thiết phục vụ cho giáo viên trong dạy học. Bài học kinh nghiệm Qua kết quả hực nghiệm và thức tế giảng dạy môn Toán ở lớp 2, bản thân thấy để tiết dạy có hiệu quả tốt cần thực hiện tốt các giải pháp. * Muốn dạy tốt môn toán ở lớp 2 thì: - Giáo viên cần soạn bài kỹ, soạn trước một tuần - Học sinh có sự chuẩn bị trước bài ở nhà thật chu đáo. - Giáo viên cần dạy đủ, đúng nội dung tiết chính khoá và ngoại khoá. - Luôn động viên, khuyến khích học sinh có phương pháp giải toán tối ưu. - Giáo viên thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn để có khả năng giảng dạy tốt, tìm tòi, mở rộng từ các bài tập có sẵn trong sách giáo khoa và vở bài tập Toán lớp 2. - Luôn đổi mới trong phương pháp dạy học để cuốn hút học sinh say mê học Toán. - Chấm chữa bài kỹ, thường xuyên. - Đánh giá, kiểm tra, động viên học sinh kịp thời. Tuy nhiên để học sinh Tiểu học học tốt môn toán thì người giáo viên không chỉ truyền thụ kiến thức theo các gợi ý, hướng dẫn đã có sẵn trong sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách máy móc, rập khuôn làm cho học sinh học tập một cách thụ động mà đòi hỏi người giáo viên phải gây được hứng thú học tập cho các em bằng cách lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập. Trò chơi học tập là một hoạt động mà các em hứng thú nhất. Thông qua các trò chơi các em sẽ lĩnh hội những tri thức toán học một cách dễ dàng cũng cố vững chắc sâu kiến thức một cách vững chắc tạo cho các em niềm say mê hứng thú học tập và đạt hiệu quả cao. Muốn vậy, giáo viên phải nắm vững đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học, từ đó thiết kế trò chơi cho phù hợp cho mọi học sinh nhất là những em còn hay rụt rè thiếu tự tin. Trên đây là một vài suy nghĩ và biện pháp thực hiện khi dạy môn Toán lớp 2 mà tôi đã làm để học sinh tiếp thu kiến thức một cách chủ động, tích cực, bước đầu đạt hiệu quả tốt. Rất mong được sự đóng góp giúp đỡ của các đồng nghiệp, hội đồng khoa học nhà trường để giúp tôi ngày càng dạy tốt bộ môn Toán.
Tài liệu đính kèm: