1.2. Đối với giáo viên, riêng bản thân tôi nhiều lúc giảng dạy cũng thấy khó khăn bởi một tiết học có những bài rất ngắn, kiến thức cơ bản không nhiều, lượng bài tập cần suy luận diễn dịch cũng không nhiều vì các bài tập chủ yếu từ trực quan để lựa chọn các khẳng định đúng, sai; Tuy nhiên, tiềm ẩn trong đó là quá trình suy luận, lập luận có căn cứ.
Chẳng hạn bài toán: Trường hợp nào sau đây ba điểm A, B, C thẳng hàng?
a. AB + BC > AC
b. AB + BC = AC
Học sinh phải biết lập luận: Nếu có AB + BC = AC thì điểm B nằm giữa hai điểm A và C. Mà điểm B nằm giữa hai điểm A và C thì 3 điểm A, B, C thẳng hàng. Đây cũng chính là những lập luận có căn cứ đầu tiên mà các em bắt đầu làm quen trong giải toán.
Đối với việc lựa chọn bài tập khó cho học sinh khá, giỏi lại càng khó hơn. Chẳng hạn như đối với bài toán:
Cho 10 điểm trong đó không có 3 điểm nào thẳng hàng. Hỏi vẽ được tất cả bao nhiêu đường thẳng đi qua 2 trong 10 điểm đó?
Học sinh cần suy luận chặt chẽ, có căn cứ: Qua 2 điểm phân biệt vẽ được một và chỉ một đường thẳng. Từ đó qua 1 điểm kẻ tới 9 điểm còn lại ta được 9 đường thẳng, mà có tất cả 10 điểm nên vẽ được 9.10 đường thẳng,
Phần A Giới thiệu đề tài I. Lý do chọn đề tài: Từ năm học 2002 - 2003 đến nay, chương trình thay SGK đã thực hiện đến năm thứ năm. Với tinh thần thay đổi cả nội dung, hình thức của SGK, cải tiến phương pháp giảng dạy của giáo viên, phương pháp học tập của học sinh nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng dạy và học, đưa chất lượng giáo dục Việt Nam sánh vai với các nước đã và đang phát triển. Bản thân tôi rất băn khoăn lo lắng khi năm học 2004 - 2005 được nhận dạy 2 lớp 6, mặc dù khi đó đã là năm thứ ba thực hiện chương trình thay sách giáo khoa. Với yêu cầu về nội dung là giảm tính lý thuyết chặt chẽ, tăng vận dụng thực hành, nêu bật được ý nghĩa thực tiễn của bộ môn. Các hình thức kiểm tra, đánh giá học sinh cũng phong phú hơn; hình thức kiểm tra trắc nghiệm đúng; sai, học sinh tự đánh giá học sinh cũng được chú trọng. Thế thì, việc rèn luyện kỹ năng lập luận có căn cứ trong Hình học lớp 6 cho học sinh có bị ảnh hưởng không? Trong khi kỹ năng lập luận có căn cứ là một vấn đề quan trọng là cái đích mà học sinh các lớp trong cấp THCS cần đạt được. Thế nên, tôi nghiên cứu đề tài: "Rèn luyện kỹ năng lập luận có căn cứ cho học sinh trong dạy học Hình học lớp 6". Tôi nghĩ rằng nếu vấn đề tôi đưa ra được áp dụng vào quá trình dạy Hình học ở lớp 6 thì sẽ có các tác dụng như: - Giúp học sinh thấy được kiến Hình học lớp 6 là một hệ thống kiến thức xâu chuỗi chứ không như một số kiến thức hình học lẻ tẻ theo trực giáo ở Tiểu học. - Giúp học sinh thấy được hình học có cấu trúc chặt chẽ lôgic, muốn lĩnh hội được các kiến thức hình học thì cần phải phân loại kiến thức, nắm kiến thức một cách hệ thống, phải có trình độ phát triển tư duy phù hợp. - Rèn luyện cho học sinh kỹ năng lập luận có căn cứ trong một bài toán hình học - là cơ sở tốt cho việc học hình học ở cả bậc THCS. - Rèn luyện cho học sinh có khả năng tư duy tốt trong quá trình suy nghĩ tìm tòi lập luận giải bài toán, từ đó phát hiện và bồi dưỡng được các học sinh có năng khiếu bộ môn toán. - Làm cho các em yêu khoa học, yêu tính chặt chẽ, chính xác của bộ môn Hình học nói riêng và Toán học nói chung. Vì vậy tôi đã chọn đề tài này nhằm mục đích đạt được các vấn đề nêu trên và cũng chính là nâng cao chất lượng dạy học Hình học lớp 6 tạo tiền đề cho các em học tốt Hình học các lớp sau trong bậc THCS. II. Phạm vi đề tài: Đề tài được thực hiện lần 1 trong phạm vi 2 lớp 6A, 6B năm học 2004 - 2005 và hiện tại đang thực hiện lần 2 ở lớp 6A, 6B năm học 2006 - 2007. III. Lịch sử của vấn đề: Vì chưa có một hội thảo nào trao đổi về vấn đề viết SKKN và đưa ra các SKKN hay cho giáo viên áp dụng nên tôi không biết đã có ai nghiên cứu vấn đề này chưa. Về các tài liệu như sách, báo thì tôi đã có đọc và tìm hiểu vấn đề này qua bài viết của anh Nguyễn Văn Lộc. Tuy nhiên, quyển sách đó đã đưa ra những vấn đề cụ thể mà chúng ta thường sử dụng trong giảng dạy cả lớp 6 và 7 mà không đề cập đến cơ sở lý luận của vấn đề cũng như những vấn để mà khi thực hiện mắc phải. Vì thế tôi mạnh dạn viết đề tài "Rèn luyện kỹ năng lập luận có căn cứ cho học sinh trong dạy học Hình học lớp 6" với mong muốn sẽ đi sâu vào những vấn đề mà mình tâm đắc nhất, những điều mà đem lại hiệu quả cao trong thực tế dạy học. IV. Mục đích nghiên cứu: Đó là tâm huyết của người giáo viên đứng lớp nói chung và của tôi nói riêng, đó là mong muốn cho học sinh khi bước vào ngưỡng cửa bậc THCS có một niềm yêu thích, say mê học bộ môn toán nói chung và hình học nói riêng bởi tính trừu tượng, lôgic chặt chẽ, hệ thống của nó và giúp các em thấy rõ sự khác biệt giữa Hình học ở Tiểu học và bậc THCS. Giúp các em thấy được việc sử dụng ngôn ngữ, ký hiệu trong giải toán Hình học là rất quan trọng và đòi hỏi chặt chẽ chính xác. Từ đó các em yêu thích bộ môn bởi yêu tính lôgic, chặt chẽ, chính xác của nó. Muốn làm được điều đó tôi đã đi nghiên cứu vấn đề rèn luyện kỹ năng lập luận có căn cứ trong dạy học Hình học 6. Đó chính là mục đích hướng tôi đi nghiên cứu vấn đề này. V. Phương pháp nghiên cứu: Khi phát hiện ra nhiều học sinh trong quá trình làm bài tập Hình học lập luận thiếu chặt chẽ tôi bắt đầu đi nghiên cứu vấn đề này. Phương pháp nghiên cứu của tôi là đi từ nghiên cứu các tài liệu sách báo viết về vấn đề mình quan tâm trong đó đặc biệt chú trọng đến các sách viết về phương pháp. Ngoài ra, tôi còn tìm hiểu nhiều sách viết về hệ thống các dạng bài tập Hình học 6 từ đơn giản đến phức tạp, vấn đề không kém quan trọng là tìm nguyên nhân vì sao các em lập luận thiếu căn cứ. Từ đó, tôi lập dàn ý xuất phát theo các bước đã được học cách viết một đề tài khoa học, khó khăn ở đâu tôi lại tiếp tục đọc những tài liệu liên quan, đồng thời kết hợp với các kinh nghiệm qua dạy học bản thân đúc rút được. Phần áp dụng đề tài tôi thực hiện liên tục và có hệ thống, rút kinh nghiệm về việc rèn luyện kỹ năng lập luận có căn cứ cho học sinh từng tiết, từng phần và cả chương. Cuối cùng, tôi viết đề tài một cách chi tiết. VI. Cấu trúc của đề tài: Đề tài gồm 4 phần: 1. Cơ sở lý luận của vấn đề. 2. Thực trạng của vấn đề. 3. Nội dung của đề tài. 4. Kết quả ứng dụng. Phần B Nội dung nghiên cứu I. Cơ sở lý luận của vấn đề: Việc dạy cho học sinh nắm được kiến thức cơ bản và vận dụng tốt vào giải bài tập đối với môn toán không dễ chút nào, hơn nữa đối với hình học lại càng khó hơn. Trong quá trình dạy, nhiều khi tôi vẫn thấy các em tham gia phát biểu xây dựng bài rất sôi nổi, thế nhưng khi vận dụng vào bài tập việc diễn đạt, lập luận thì không nhiều em làm được. Nghiên cứu chương trình Hình học ở cấp THCS tôi thấy Hình học 6 là phần chuyển tiếp từ học bằng quan sát, thực nghiệm ở cấp Tiểu học sang tiếp thu kiến thức bằng suy diễn ở cấp THCS. ở Tiểu học, kiến thức Hình học được xây dựng bằng quy nạp: thông qua khảo sát các hình để rút ra các tính chất chung và các hệ thức rồi áp dụng để giải các bài tập. ở THCS, dùng phương pháp suy diễn: trình bày các khái niệm cơ bản, các tiền đề, các khái niệm, các tính chất, quan hệ phải được rút ra nhờ suy luận chặt chẽ từ cái đã biết. Như vậy, xác định được sự khác biệt giữa Hình học hai cấp học là vấn đề mấu chốt từ đó trong quá trình giảng dạy tôi đi đúng định hướng, mục đích trên cơ sở nghiên cứu vấn đề này nhằm đem lại kết quả cao trong dạy học Hình học cấp THCS nói chung và Hình học 6 nói riêng. II. Thực trạng của vấn đề: Theo tôi nghĩ, vấn đề mà tôi đưa ra không phải là cấp bách bởi lẽ nhiều đồng nghiệp của tôi đã làm trong qúa trình giảng dạy. Tuy nhiên, kết quả đem lại ra sao thì còn phụ thuộc vào khả năng của từng người trong áp dụng vào thực tiễn. Nhưng tất yếu đây là vấn đề rất cần thiết bởi lẽ dạy cho học sinh thói quen lập luận có căn cứ trong Hình học 6 là vấn đề không dễ và nếu không làm tốt ngay từ đầu cấp thì ảnh hưởng rất lớn đến việc học Hình học của các em ở các lớp sau này và có thể còn làm cho các em sợ học Hình học. Vì thế vấn đề mà tôi nghiên cứu là không thể thiếu trong giảng dạy Hình học lớp 6. III. Nội dung của đề tài: 1. Hiện trạng chung khi chưa thực hiện đề tài: 1.1. Đối với học sinh, một số em coi nhẹ việc học Hình học lớp 6 bởi khi học các em thấy những điều đó thật hiển nhiên, thật dễ đến mức một đứa trẻ lên 3 cũng nhận ra được. Ví dụ như nhìn vào hình vẽ để xác định điểm thuộc hay không thuộc một đường thẳng, rồi ký hiệu ẻ hay ẽ vào ô vuông; hay như "Trong 3 điểm thẳng hàng có một và chỉ một điểm nằm giữa hai điểm còn lại". Đối với các em học sinh giỏi thì lại càng chủ quan hơn. 1.2. Đối với giáo viên, riêng bản thân tôi nhiều lúc giảng dạy cũng thấy khó khăn bởi một tiết học có những bài rất ngắn, kiến thức cơ bản không nhiều, lượng bài tập cần suy luận diễn dịch cũng không nhiều vì các bài tập chủ yếu từ trực quan để lựa chọn các khẳng định đúng, sai; Tuy nhiên, tiềm ẩn trong đó là quá trình suy luận, lập luận có căn cứ. Chẳng hạn bài toán: Trường hợp nào sau đây ba điểm A, B, C thẳng hàng? a. AB + BC > AC b. AB + BC = AC Học sinh phải biết lập luận: Nếu có AB + BC = AC thì điểm B nằm giữa hai điểm A và C. Mà điểm B nằm giữa hai điểm A và C thì 3 điểm A, B, C thẳng hàng. Đây cũng chính là những lập luận có căn cứ đầu tiên mà các em bắt đầu làm quen trong giải toán. Đối với việc lựa chọn bài tập khó cho học sinh khá, giỏi lại càng khó hơn. Chẳng hạn như đối với bài toán: Cho 10 điểm trong đó không có 3 điểm nào thẳng hàng. Hỏi vẽ được tất cả bao nhiêu đường thẳng đi qua 2 trong 10 điểm đó? Học sinh cần suy luận chặt chẽ, có căn cứ: Qua 2 điểm phân biệt vẽ được một và chỉ một đường thẳng. Từ đó qua 1 điểm kẻ tới 9 điểm còn lại ta được 9 đường thẳng, mà có tất cả 10 điểm nên vẽ được 9.10 đường thẳng, trong đó mỗi đường đã tính hai lần nên số đường thẳng thực có là (đường thẳng). Tóm lại, thực trạng chung lúc đó đối với tôi là đang khó khăn. Qua một bài kiểm tra 15 phút giữa chương I Hình học 6 kết quả như sau: Điểm 0đ4 Điểm 5đ6 Điểm 7đ8 Điểm 9đ10 Điểm TB trở lên SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % 18 24,3 22 29,7 24 32,5 10 13,5 56 75,7 2. Các biện pháp tác động giáo dục và các giải pháp khoa học khi tiến hành: 2.1. Đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu hệ thống kiến thức, tính lôgic, thừa kế, phát triển các kiến thức như thế nào từ lớp 6 đến các lớp 7, 8, 9. Phân thành hai giai đoạn: lớp 6, 7 và lớp 8, 9 để nghiên cứu. Qua đó tôi thấy được các bài tập ở lớp 6 đa số là những bài tập: quan sát hình vẽ rồi xác định câu đúng, sai; kể tên các đoạn, đường, tia, góc... trên hình vẽ; vẽ hình theo diễn đạt bằng lời; vẽ hình có định lượng, điền từ vào chỗ trống để hoàn thành các quan hệ, các tính chất, các "định nghĩa" của các khái niệm,.... Chỉ có một lượng ít bài tập có tính toán, so sánh, độ dài đoạn thẳng, số đo góc. Tuy nhiên, đó là điều hết sức quan trọng, là cơ sở, là tiền đề cho việc học Hình học của các lớp sau. Nếu các em không được uốn nắn, rèn luyện từ đầu thì lên các lớp trên các em sẽ rất khó khăn khi giải quyết các bài toán tổng hợp như chứng minh, tính toán, tìm tập hợp điểm, tìm điều kiện... 2.2. Nghiên cứu về hai giai đoạn của quá trình hình thành kỹ năng lập luận có căn cứ: Qua nghiên cứu các loại tài liệu có liên quan và kinh nghiệm giảng dạy cho tôi thấy Hình học là một trong các môn học có tính tổ chức lôgic cao vì thế trên cơ sở dạy những khái niệm cơ bản, những quan hệ, tính chất (thừa nhận) đầu tiên nên dạy cho học sinh biết cách lập luận có căn cứ giúp các em có phương tiện để lĩnh hội kiến thức sâu hơn. Đó là quá trình cần được tổ chức ngay từ tiết học đầu tiên của Hình học 6. Quá trình này, theo tôi gồm hai giai đoạn: 2.2.1. Giai đoạn 1: Giai đoạn chuẩn bị tiền đề "vật chất" cho việc dạy lập luận có căn cứ. ở giai đoạn này, nhiệm vụ chủ yếu là dạy cho học sinh nắm vững các khái niệm và tính chất Hình học bằng cách bồi dưỡng các kỹ năng phân tích cấu trúc lôgic của chúng. 2.2.2. Giai đoạn 2: Giai đoạn thực sự dạy lập luận có căn cứ. Nhiệm vụ ở giai đoạn này là dạy học sinh biết cách sử dụng "tiền đề vật chất" đã được chuẩn bị ở giai đoạn 1 để học sinh thực hành vận dụng kiến thức Hình học, bằng cách bồi dưỡng các kỹ năng suy luận vận dụng khái niệm, quan hệ, tính chất và kỹ năng giải toán tổng hợp. Giai đoạn này có mối quan hệ hữu cơ với giai đoạn 1. Sự kế thừa giữa hai giai đoạn được thực hiện theo đường xoáy trôn ốc nhằm làm cho chất lượng dạy học ở tiết sau bao giờ cũng cao hơn chất lượng dạy tiết trước đó. 2.3. Biện pháp thực hiện: Quá trình hình thành kỹ năng lập luận có căn cứ được thực hiện thông qua biện pháp chủ yếu là xây dựng và sử dụng câu hỏi, bài tập. Hệ thống câu hỏi, bài tập ứng với mỗi loại kỹ năng, thống nhất về cấu trúc cơ bản, khác nhau về mức độ yêu cầu, đặc điểm nội dung kiến thức cần khai thác ở mỗi tiết học. Theo tinh thần đó thì hệ thống câu hỏi, bài tập và phương pháp dạy học sẽ đảm bảo tính thống nhất về quy trình dạy học của mỗi tiết trong Hình học 6. Trong mỗi tiết học, học sinh được luyện tập các câu hỏi, bài tập ứng với kỹ năng cần hình thành của cả hai giai đoạn nêu trên. 2.4. Hình thức tổ chức dạy học: Trong mỗi tiết học, phương pháp dạy học hệ thống câu hỏi, bài tập gồm ba bước chủ yếu sau: Bước 1: Giáo viên tổ chức cho học sinh cả lớp làm chung bài mẫu hoặc đọc, phân tích, nắm vững cấu trúc bài giải mẫu. Bước 2: Học sinh tự làm các bài luyện tập theo mẫu, sau khi học sinh làm xong giáo viên thu bài của học sinh. Bước 3: Giáo viên tổ chức cho cả lớp thảo luận để đưa ra lời giải đúng của các bài tập mà học sinh đã làm. Tất cả các tiết học tôi đã đều áp dụng 3 bước trên vào việc trả lời câu hỏi, bài tập. Tuy nhiên, với các bài rèn luyện kỹ năng nhận biết, diễn đạt bằng lời các quan hệ, kỹ năng đối chiếu, kỹ năng dùng cấu trúc "nếu... thì....", kỹ năng lập luận trước khi vẽ hình,.... tôi xin phép không nêu ra ở đây mà chỉ lấy 2 ví dụ về tiết dạy có tính suy luận nhiều hơn: u Tiết 11: Vẽ đoạn thẳng cho biết độ dài Sau khi dạy xong phần lý thuyết, giáo viên cho học sinh luyện tập: Bước 1: Giáo viên cho học sinh làm bài 53 (T124 SGK) Tổ chức cho các em thảo luận nhóm nhỏ để giải quyết bài toán. Bước 2: Giáo viên tổ chức cho cả lớp thảo luận để đưa ra lời giải đúng. Bước 3: Giáo viên trình bày bảng bài giải như là một bài giải mẫu giúp học sinh tự đánh giá kết quả bài làm của mình và nắm được quá trình suy luận lôgic khi giải quyết bài toán. Chẳng hạn: O M N x Vì M, N ẻ Ox và OM = 3cm, ON = 6cm suy ra OM < ON Nên điểm M nằm giữa hai điểm O và N Vậy ta có: OM + MN = ON MN = ON - OM MN = 6 - 3 MN = 3(cm) Vì OM = 3cm, MN = 3cm nên OM = MN Qua bài toán, giáo viên rèn luyện cho học sinh được kỹ năng lập luận có căn cứ để khẳng định một điểm nằm giữa hai điểm và từ có điểm nằm giữa hai điểm suy ra đẳng thức, từ đẳng thức tìm được độ dài đoạn thẳng để so sánh. Khi đã quen với lập luận có căn cứ học sinh có thể chủ động tự luyện tập các bài toán tương tự như bài 54, 55 (T124 SGK). v Tiết 22: Luyện tập Sau khi học xong tiết 20 học sinh đã biết lập luận có căn cứ để tính số đo góc theo quy trình: Từ các vấn đề bài toán đã cho đ khẳng định tia nằm giữa hai tia đ viết hệ thức cộng góc đ tìm số đo góc. Và sau khi học tiết 21, học sinh đã biết lập luận có căn cứ để khẳng định một tia có hay không là tia phân giác một góc. ở tiết 21 này học sinh biết sử dụng tổng hợp các kiến thức trên vào giải các bài tập tính số đo góc, so sánh số đo hai góc, kiểm tra một tia có là tia phân giác của một góc hay không. Vì vậy, giáo viên cần rèn luyện cho học sinh kỹ năng lập luận có căn cứ một cách rõ ràng, đầy đủ. Cụ thể theo trình tự: Bước 1: Cho học sinh làm bài 33 T87 (SGK) bằng cách trao đổi nhóm nhỏ sau đó viết ra bài làm của mình. Giáo viên thu bài làm của học sinh. Bước 2: Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận, trao đổi cả lớp đề xuất cách lập luận giải quyết bài toán. Bước 3: Giáo viên trình bày lời giải bài toán lên bảng một cách đầy đủ chặt chẽ, học sinh một lần nữa định hình tổng quát bài giải. Từ đó các em nắm các điểm chốt của lập luận và căn cứ kèm theo. Học sinh tự đánh giá bài làm của mình và rút kinh nghiệm cho việc làm bài tập sau. Sau đó giáo viên cho học sinh làm tiếp bài tập 34, 36 T87 trên cơ sở học sinh đã biết lập luận có căn cứ. 2.5. Trong quá trình thực hiện đề tài cần chú ý đến các vấn đề sau: 2.5.1. Cung cấp cho học sinh hệ thống căn cứ đó là hệ thống kiến thức cơ bản mà học sinh cần nắm. Chẳng hạn đối với chương I Hình học 6, học sinh cần hệ thống được các nội dung như: - Các hình (các hình được định nghĩa và không được định nghĩa) - Các quan hệ (quan hệ giữa các hình nêu trên) - Các tính chất (đó là các tính chất cơ bản được thừa nhận) được nêu trong SGK bằng các "nhận xét". 2.5.2. Giáo viên cần cung cấp cho học sinh biết các kiến thức đó vận dụng vào những dạng bài tập cụ thể nào. Chẳng hạn với những bài tập lựa chọn đúng, sai hoặc điền từ thích hợp vào chỗ trống, học sinh cần nắm chắc các quan hệ, các định nghĩa, các tính chất. Với những bài tập kiểm tra điểm nằm giữa 2 điểm, 3 điểm thẳng hàng, tia nằm giữa hai tia cần nắm chắc các tính chất. Với các bài tập tính toán độ dài đoạn thẳng, khẳng định một điểm là trung điểm của 1 đoạn thẳng, tính số đo góc, khẳng định một tia là tia phân giác của một góc thì học sinh cần nắm chắc các tính chất. Từ đó học sinh định hình được các dạng bài tập cơ bản của chương và các kiến thức được vận dụng như thế nào vào việc giải các bài tập đó. 2.5.3. Kiểm tra sự phản hồi của học sinh sau mỗi tiết dạy thông qua các bài tập, giáo viên thu chấm, chữa nhanh ở lớp. IV. Kết quả ứng dụng: Sau khi áp dụng đề tài trên vào giảng dạy Hình học 6 tôi thấy học sinh ý thức được việc lập luận có căn cứ trong giải bài tập Hình học 6 là rất quan trọng, cần thiết. Các em rất thích thú và cố gắng để làm tốt các bài toán giáo viên ra ngay ở lớp cũng như ở nhà. Kết quả bài kiểm tra 15' hai lớp 6 năm học 2004 - 2005 sau khi học xong tiết 13 Ôn tập chương I như sau: Điểm 0đ4 Điểm 5đ6 Điểm 7đ8 Điểm 9đ10 Điểm TB trở lên SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % 15 20,3 20 27 23 31,1 16 21,6 59 79,7 Kết quả kiểm tra 15' hai lớp 6 năm học 2006 - 2007 sau khi học xong tiết 13 Ôn tập chương I như sau: Điểm 0đ4 Điểm 5đ6 Điểm 7đ8 Điểm 9đ10 Điểm TB trở lên SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % 5 11 25 27,5 26 28,6 35 38,5 86 89 Phần C Kết luận Qua đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu và đưa vào áp dụng đề tài này trong dạy Hình học 6 tôi thấy chất lượng học của học sinh được nâng lên rõ rệt. ý thức làm một bài tập hình cần có lập luận có căn cứ đối với học sinh được nâng lên, không những thế các em nắm kiến thức rất có hệ thống bởi muốn lập luận chặt chẽ cần sử dụng rất nhiều kiến thức đã học trong một bài toán, ngoài ra còn rèn luyện cho các em kỹ năng diễn đạt mạch lạc, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, ký hiệu một cách chính xác trong giải toán Hình học, kỹ năng trình bày hợp lý,... Tuy nhiên, để áp dụng đề tài có hiệu quả, theo tôi giáo viên phải thực hiện đề tài liên tục trong tất cả các tiết dạy, trong từng bài toán. Đặc biệt phải làm cho học sinh ngay từ đầu ý thức được việc lập luận có căn cứ trong giải toán là cần thiết, là cơ sở cho việc học các lớp trên. Ngoài ra còn cung cấp cho các em kế hoạch, phương pháp học tập bộ môn một cách hợp lý. Trên đây là một chút kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã và đang áp dụng vào giảng dạy Hình học 6, tôi cố gắng để thực hiện ngày một tốt hơn vấn đề đó. Bản thân tôi rất mong được sự góp ý, bổ sung của chuyên môn cấp trên để vấn đề được hoàn thiện hơn và áp dụng tốt hơn vào giảng dạy nhằm không ngừng nâng cao chất lượng bộ môn góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ năm học 2006 - 2007 của nhà trường nói riêng và sự nghiệp giảng dạy sau này nói chung. Đồng Mỹ, ngày 10 tháng 01 năm 2007 Người viết Đoàn Thị Tình Thương Sở giáo dục - đào tạo Quảng Bình Phòng giáo dục thành phố Đồng Hới -----&----- Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện kỹ năng lập luận có căn cứ cho học sinh trong dạy học hình học lớp 6 Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tình Thương Đơn vị: Trường THCS Đồng Mỹ Đồng Hới , tháng 01 năm 2007
Tài liệu đính kèm: