Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học Lớp 8 - Phạm Văn Sỹ

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học Lớp 8 - Phạm Văn Sỹ

Hoạt động sư phạm là một hoạt động đặc biệt vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Nó đòi hỏi người giáo viênmột năng lực sư phạm vững vàng, một phương pháp giảng dạy phù hợp theo hướng tích cực giúp học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Việc tạo cho học sinh niềm hứng thú học tập phân môn HÌnh học hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực sư phạm của người giáo viên. Muốn đạt điều đó, bên cạnh việc trau bồi kiến thức chuyên môn thông qua các hjình thức khác nhau thì việc nghiên cứu để tạo cho mình một tiếng nói sư phạm riêng lại rất cần thiết. Điều đó giúp giáo viên có thể truyền thụ cho học sinh một cách nhẹ nhàng, dễ hiểu, phù hợp khả năng tiếp thu của từng đối tượng.

 Bám sát định hướng chung của ngành trong việc đổi mới phương pháp dạy học Toán ở trường THCS là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển năng lực tự học, nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập sáng tạo, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm say mê, hứng thú học tập cho các em. Đặc biệt những năm học gần đây toàn ngành đang thực hiện phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” thì việc tạo hứng thú học tập cho học sinh cũng chính là tạo cho các em có niềm tin trong học tập, khơi dậy trong các em ý thức “ mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Đó chính là cơ sở để khẳng định tạo hứng thú cho học sinh học tập nói chung, phân môn Hình học nói riêng trở thành một đòi hỏi đối với người làm công tác giảng dạy.

 

doc 17 trang Người đăng tuvy2007 Lượt xem 738Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học Lớp 8 - Phạm Văn Sỹ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Lí do chọn đề tài.
 Một xã hội mốn phát triển vững mạnh đòi hỏi phải xác định và đầu tư được nhân tố cơ bản. Với bề dày lịch sử của bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước Việt Nam luôn xác định được nhân tố để đưa đất nước vươn lên tầm cao mới là con người Việt Nam vừa hồng vừa chuyên. Con người ấy chính là sản phẩm của quá trình giáo dục theo định hướng đúng đắn. Bởi vậy trong nghị quyết 4 của BCH TW Đảng cộng sản Việt Nam khóa VII( 1 – 1993) đã khẳng định rằng “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII một lần nữa khẳng định” Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân klực và bồi dưỡng nhân tài”.
Năm học 2010 – 2011 là năm tiếp tục hưởng ứng cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” cùng với cuộc vận động” Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”. Đồng thời là năm học thứ ba triển khai cuộc vận động” Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, “ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục”. Đặc biệt trong bối cảnh cả nước tưng bừng phấn khởi trong không khí của Đại hội Đảng toàn quốc, toàn ngành giáo dục đang nỗ lực đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong hoạt động học tập để đào tạo ra những con người năng động, sớm thích ứng với đời sống xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước; đòi hỏi đội ngũ giáo viên phải không ngừng đổi mới nội dung, phương pháp, để trong mối tiết dạy bình thường ở trường phổ thông học sinh được hoạt động nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là được suy nghĩ nhiều hơn trên con đường chủ động chiếm lĩnh nội dung học tập. Nghị quyết số 02/NQ-HNTW khóa VIII của Đảng đã nêu bật yêu cầu:
“Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học”. Luật giáo dục nước CHXHCN Việt Nam cũng nêu rõ: “ phương pháp giáo dục phảo phát huy tính tích cự, tự giác, chủ động tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý thức vươn lên”.
 Định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đã xác định: “ phương pháp dạy học Toán trong nhà trường các cấp phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học, trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy”. Bắt nguồn từ định hướng đó giáo viên cần học hỏi, nghiên cứu, tìm tòi và áp dụng những phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng vùng miền, từng đối tượng học sinh, từng kiểu bài làm cho giờ học đạt hiệu quả cao nhất.
 Là giáo viên trực tiếp giảng dạy và tìm hiểu thực tiễn tại trường THCS Quảng Lộc- một địa bàn còn nhiều khó khăn, tôi nhận thấy còn nhiều học sinh chưa nắm vững kiến thức cơ bản của môn Toán nói chung, phân môn Hình học nói riêng. Điều đó thể hiện qua chất lượng bộ môn vẫn còn thấp, các bài kiểm tra, bài thi chưa đạt yêu cầu còn nhiều. Quá trình kiểm tra đó cho thấy phản ứng từ phía học sinh là : phân môn Hình học khó tiếp thu,lượng kiến thức trong giờ học nhiều mà lại khô khan, không hấp dẫn.... Điều đó nảy sinh trong tôi những trăn trở: làm thế nào để nâng cao chất lượng bộ môn? làm thế nào để học sinh hứng thú , say mê trong khi học? có biện pháp nào để tạo niềm say mê cho các em?.....Với mong muốn tìm ra những đáp án đó đã thúc đẩy tôi chọn và nghiên cứu đề tài: “ Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn HÌnh học 8”. đề tài này tôi biết là đã có nhiều người nghiên cứu và có nhiều hướng giải quyết, sọng bám sát thực tế nhà trường và tâm lí, hoàn cảnh đối tượng của mình tôi mạnh dạn nghiên cứu theo quan điểm của bản thân.
2. Mục đích của đề tài.
 Hướng dẫn học sinh tiếp thu môn Toán nói chung, môn Hình học nói riêng đạt kết quả cao không phải là chuyện nói đến đâu làm ngy được đến đó. Muốn đạt hiệu quả giảng dạy đòi hỏi một mặt kiến thức của thầy phải vững, phải sâu, phải có phương pháp phù hợp; mặt khác đòi hỏi người thầy có kỹ năng, nghiệp vụ sư phạm thật khéo léo. Với đối tượng học sinh lớp 8 các em đã bắt đầu có biểu hiện của lứa tuổi “ tập làm người lớn” nên lời khen, lời động viên đối với các em khát huy hiệu quả không nhỏ. Bởi nó đã tác động vào thế giới tâm lí, tình cảm của các em khiến nảy sinh hứng thú về vấn đề đang được đặt ra hướng các em đến với những hành vi tự giác, chủ động và tích cực trong việc chiếm lĩnh tri thức. Đặc biệt với học sinh có biểu hiện chán học, khó tiếp thu hoặc không có tinh thần tiếp thu kiến thức sẽ khiến các em rơi vào tình trạng học sa sút. Bởi vậy người giáo viên phải dùng cái tâm của mình để giúp các em vượt qua trở ngại này vươn lên trong học tập. Và khi ấy người giáo viên thực sự dành cho các em một sự động viên, khích lệ kịp thời để tạo ra một bước đột phá trong học tập. Khi xác định được mục đích, ý nghĩa lớn lao của vấn đề này mới có thể xây dựng được phương pháp phù hợp nhất. Bởi vậy biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môn HÌnh học 8 là một nội dung có tính chất quan trọng và lâu dài đối với nhà trường nói chung và từng giáo viên nói riêng. Khi xây dựng đề tài này bản thân tôi hướng đến mục đích cụ thể như vậy nhằm triển khai có hiệu quả phương pháp mà mình đã tích lũy qua nhiều năm làm công tác giảng dạy môn Toán cho học sinh THCS.
PHẦN THỨ II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng.
 1.1. Những vấn đề cơ sở lí luận.
 Hoạt động sư phạm là một hoạt động đặc biệt vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Nó đòi hỏi người giáo viênmột năng lực sư phạm vững vàng, một phương pháp giảng dạy phù hợp theo hướng tích cực giúp học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Việc tạo cho học sinh niềm hứng thú học tập phân môn HÌnh học hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực sư phạm của người giáo viên. Muốn đạt điều đó, bên cạnh việc trau bồi kiến thức chuyên môn thông qua các hjình thức khác nhau thì việc nghiên cứu để tạo cho mình một tiếng nói sư phạm riêng lại rất cần thiết. Điều đó giúp giáo viên có thể truyền thụ cho học sinh một cách nhẹ nhàng, dễ hiểu, phù hợp khả năng tiếp thu của từng đối tượng.
 Bám sát định hướng chung của ngành trong việc đổi mới phương pháp dạy học Toán ở trường THCS là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển năng lực tự học, nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập sáng tạo, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm say mê, hứng thú học tập cho các em. Đặc biệt những năm học gần đây toàn ngành đang thực hiện phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” thì việc tạo hứng thú học tập cho học sinh cũng chính là tạo cho các em có niềm tin trong học tập, khơi dậy trong các em ý thức “ mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Đó chính là cơ sở để khẳng định tạo hứng thú cho học sinh học tập nói chung, phân môn Hình học nói riêng trở thành một đòi hỏi đối với người làm công tác giảng dạy.
 1.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
 Từ thực tiễn giảng dạy môn Toán 8 của chương trình đổi mới SGK phổ thông tại trường THCS Quảng Lộc tôi nhận thấy rằng:
 Trong trường THCS môn Toán là mộ khoa học luôn được chú trọng cao và cũng là môn có nhiều khái niệm trìu tượng. Nhất là phân môn Hình học có nhiều khái niệm trìu tượng nhất, bởi khi thực hiện các bài làm đối với hình vẽ lại phải “ mở rộng” các yếu tố như: vẽ thêm đường phụ để chứng minh, điểm, đường thẳng hay suy luận.... Kiến thức trong bài tập phong phú rất nhiều so với nội dung lía thuyết mới học. Bên cạnh đó yêu cầu bài học lại cao phải suy diễn chặt chẽ, lôgic.
 Nếu phân môn Đại số các dạng bài tập thường có cách làm rất rõ ràng, chẳng hạn như: khi chia đa thức một biến đã sắp xếp, giải phương trình chứa ẩn ở mẫu thức, giải bài toán bằng cách lập phương trình thì SGK đưa ra các bước giải rất cụ thể ; thì phân môn Hình học lí thuyết vừa ít lại trìu tượng, các hướng đi cụ thể ít nên học sinh khó định hướng cách làm. Hơn nữa sự chênh lệch giữa kiến thức lí thuýêt với lượng bài tập và thời gian luyện tập lại quá lớn. Do đó rất khó khăn trong việc chịn bài tập cho học sinh làm ở nhà, chọn bài để hướng dẫn trên lớp sao cho đầy đủ kiến thức cơ bản mà SGK yêu cầu. 
 Học sinh khó khăn trong việc lập luận, suy diễn lôgic đã tạo nên thái dodọ miễn cưỡng, chán nản ở các em. Từ đó nhiều em không nắm được kiến thức cơ bản, làm bài tập ở nhà cũng chỉ đối khó, lúng túng trong việc chọn và sử dụng dụng cụ để vẽ hình..... Điều này cho thấy giáo viên phải bỏ nhiều công sức để nghiên cứu, chọn lọc cho mình một cách soạn giảng tốt nhất để tạo hứng thú cho học sinh trong bài giảng. 
 Hơn nữa trường THCS Quảng Lộc nằm trên địa bàn thuộc vùng sâu Quảng Xương, nền kinh tế còn nhiều khó khăn, điều kiện học tập chưa đầy đủ. Học sinh phần lớn không có thời gian học ở nhà, gia đình chưa quan tâm đúng mức, vấn đề xã hội hóa giáo dục chưa ngang tầm với gia đoạn hiện nay. Bởi vậy chất lượng học tập chưa cao, số học sinh bị hổng kiến thức còn nhiều, nhất là nhiều em có tâm lí sợ môn Hình học.
 Qua điều tra về mức độ hứng thú học môn Hình học của lớp 8B đầu năm học 2010 – 2011 cho thấy kết quả: 
Tổng số HS
Số HS có hứng thú
Số HS không có hứng thú
SL
%
SL
%
44
7
16
34
84
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm phân môn Hình học thất đáng lo ngại:
TSHS
Khá giỏi
Trung bình
Yếu kém
SL
%
SL
%
SL
%
44
3
6.8
18
41
23
52.2
 2. Những giải pháp.
 Từ thực trạng học tập của học sinh trường THCS Quảng Lộc trong phấn môn Hình học, đặc biệt là kết quả khảo sát chất lượng đầu năm còn thấp nên tôi đã tiến hành áp dụng các phương pháp nhằm gây hứng thú cho các em trong giờ học Hình học như sau:
 Biện pháp 1. Tạo hứng thú cho học sinh khi tìm hiếu kiến thức mới.
 Như đã khẳng định học sinh THCS là lứa tuổi rất hiếu động, thích tò mò, ưa khám phá và muốn được mọi người công nhận năng lực của mình, không thích bị áp đặt, phê bình. Điều này cho thấy khi truyền thụ kiến thức giáo viê phải lựa chọn phương pháp phù hợp, nhẹ nhàng, kích thích được tính tò mò của các em để xuất hiện nhu cầu khám phá, từ đó các em có tâm lí để chinh phục kiến thức.
 Như vậy phải làm thế nào để tạo hứng thú cho các em trong giờ học? Rõ ràng để làm được điều này giáo viên phải đầu tư thật kỹ cho tiết dạy của mình. Riêng tôi khi đạy giờ Hình học thường chọn cho mình phương pháp tạo tình huống từ những vấn đề thực tiễn như: đưa ra tình huống trong thực tế hoặc kể một câu chuyện có liên quan mật thiết đến toán học. Từ đó học sinh tham gia tiết học tích cực, hào hứng hơn, các em không còn cảm giác bị gò ép, căng thẳng và chán nản, đồng thời các em sẽ nhận thức được tính thực tiễn của bộ môn
Chẳng hạn: Khi dạy bài “Đường trung bình của tam giác” tôi đưa ra vấn đề làm thế ... ng tứ giác giáo viên hướng dẫn cho học sinh cắt thế nào để được chính xác các hình “ hình thàng cân” thì phải gấp một lần tờ giấy cắt hai đáy song song, rồi cắt hai cạnh bên bằng nhau; cắt hình thoi thì phải gấp hai lần tờ giấy rồi cắt cạnh của nó vì hình thoi có hai đường chéo là trục đối xững và bốn cạnh bằng nhau. Học xong chương 2 “ Diện tích đa giác” giáo viên tổ chức một buổi thực hành chia lớp thành 4 tổ, mỗi tổ đo một khu vực của khuôn viên trường sau đó tổng hợp lại để biết được diện tích của khuôn viên trường. 
 Biện pháp 4 :Tạo hứng thú cho học sinh khi giải bài tập.
Học kết hợp với hành là một phương páhp học tapạ quan trọng mà giáo viên nào cũng phải hình thành và rèn luyện cho học sinh. Song học sinh thường gặp rất nhiều khó khăn khi giải bài tập hình học vì nó có tính chất chặt chẽ, lôgíc và trìu tượng nên giáo viên cần cho học sinh phân tích
 kỹ bài toán theo hướng đi lên hoặc đi xuống
 và cho các em nhắc lại kiến 
thức cũ có liên quan đến bài toán. 
 Ví dụ: Khi hướng dẫn cho học sinh giải 
bài tập 54 trang 96 SGK tôi phân 
tích theo sơ đồ : 
B,C đối xứng nhau qua O
B,O,C thẳng hàng và OB = OC
 Ô1 + Ô2 + Ô3 + Ô4 = 180o và OB = OC = OA
Ô2 + Ô3 = 900, OAB cân, OAC cân.
 Cần phát huy sức mạnh của tập thể trong học tập. Bởi vì khi giảng bài tập giáo viên cho học sinh hoạt dộng theo nhóm từ 4 đến 6 em, tùy theo yêu cầu của bài toán , các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc chỉ định , được giao cùng nhiệm vụ hoặc những nhiệm vụ khác nhau. Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần, trong nhóm phân công mỗi người một việc, mỗi thành viên phải làm việc tích cực, giúp đỡ nhau giải quyết vấn đề trong không khí thi dua với các nhóm khác. Nhóm cử ra một bạn đại diện trình bày trước lớp. 
 Ví dụ: Trong giời luyện tập cuối chương “Tứ giác” giáo viên đưa ra bài tập 89, trang 111 SGK. Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm theo 4 trình độ khác nhau như yếu kém, trung bình, khá, giỏi. phân công nhiệm vụ cho từng nhóm:
 + yếu kém làm câu a), 
 + trung bình làm câu b) 
 +khá làm câu c), 
 + giỏi làm câu d). 
 Sau đó giáo viên gọi bất kỳ một đại diện nào của nhóm báo cáo kết quả.
Đối với phân môn hình học việc chọn lọc và phân loại bài tập là rất quan trọng, vì vậy giáo viên có thể chia bài tập ra thành nhiều dạng: Bài tập cơ bản áp dụng ngay công thức, định nghĩa, định lí vừa học giúp học sinh có niềm tin và khắc sâu kiến thức; dạng bài tập thực tế cho thấy tính thực tiễn của toán học; dạng bài tập suy luận tổng hợp đòi hỏi học sinh phải tìm tòi, suy nghĩ, hứng thú khám phá...nhằm củng cố lại kiến thức của phần hay chương đó.
 Khi làm được điều này nó thuận lợi rất nhiều khi giao và hướng dẫn bài tập về nhà cho các em, từ đó các em có thể làm các bài tập tương tự thuận lợi hơn.
 Biện pháp 5: Tạo hứng thú cho học sinh khi vẽ hình.
 Khả năng vẽ hình không phải học sinh nào cũng có, trong khi học phân môn Hình học một yếu tố quan trọng là phải biết vẽ hình. Thế nhưng vẽ ra sao? Yếu tố nào trước, yếu tố nào sau? Ký hiệu như thế nào? Cần những dụng cụ nào?... Điều này học sinh cần có một quá trình rèn luyện lâu dài dưới sự chỉ dẫn của giáo viên ngay từ khi các em làm quen kiến thức mới.
 Khi vẽ cần xác định cho học sinh vừa đọc vừa vẽ, cần bổ sung cqác yếu tố phụ và biết biểu diễn các ngôn ngữ sang kí hiệu hình học.
 Để thực hiện những điều đó giáo viên phải lựa chọn cách vẽ để hướng dẫn học sinh vẽ hình. Cụ thể:
 - Rèn cho học sinh có thói quen kí hiệu trên hình vẽ các trường hợp : điểm, các đoạn thẳng bằng nhau, các góc bằng nhau, các trường hợp vuông góc, bổ sung các yếu tố phụ trên hình....
 - Hướng dẫn học sinh cách sử dụng các dụng cụ: 
 + Êke: vẽ góc vuông, hia đường thẳng song song....
 + Compa: vẽ đường tròn, hình tròn, hai doạn thẳng bằng nhau..
 + Thước thẳng: vẽ đường thẳng...
 Một yếu tố gây nhiều hứng thú nhất khi học hình đó là sử dụng phấn màu khi trình bày hình vẽ trên bảng giáo viên nên sử dụng phấn màu hợp lí ở các điểm đặc biệt, đường đặc biệt giúp học sinh dễ phát hiện kiến thức từ vẽ hình.
 Ở một số tiết giáo viên nên sử dụng phần mềm PowerPoint trình chiếu các bước vẽ hình cho học sinh quan sát.
 Ví dụ: Vẽ hình thoi là tứ giác có bốn cạnh bằng nhau. Do vậy khi tôi yếu cầu nêu cách vẽ hình thoi thì học sinh đã phát hiện có thể dùng Compa để vẽ bốn cung tròn có bán kính bằng nhau, giao điểm của bốn cung tròn đó chính là bốn đỉnh của hình thoi. Tôi đã chuẩn bị các bước dựng hình thoi và đặt toàn bộ phần dựng hình ở chế độ tự động ( Automatic) cứ 1 giây thì hiện 1 dối tượng.
B
	R
A
C
D
 - Lấy hai điểm A, C bất kì
 - Vẽ cung tròn tâm A bán kính R và cung tròn tâm C có cùng bán kính.
 - Hai cung tròn tren cắt nhau tại điểm B và D.
 - Kẻ các đoạn thẳng AB, BC, CD, DA ta được hình thoi ABCD.
 Học sinh vừa quan sát vừa lắng nghe giáo viên giới thiệu lần lượt từng bước dựng hình thoi, từ đó có thế vẽ lại dựa vào vở của mình không mấy khó khăn.
 Tóm lại, các bài tập đều yêu cầu học sinh vẽ hình, nên khi vẽ các em phải đọc kỹ bài, đọc đến đâu vẽ đến đó, vẽ rõ ràng và dùng đúng dụng cụ vẽ, từ đó học sinh trả lời yêu cầu đề bài. Đặc biệt phải hình thành cho học sinh thói quen phân tích kỹ đề bài, định hướng vẽ và dự đoán các trường hợp xảy ra, không nên vẽ hình đặc biệt, điểm đặc biệt.
Chẳng hạn: 
Cho tam giác ABC thì không nên vẽ cân, vuông hay đều.
Cho M là điểm nằng giữa AB thì không nên lấy tại trung điểm của AB.
PHẦN III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
 1. Kết quả đạt được.
 Trong quá trình giảng dạy học kỳ I vừa qua khi áp dụng kinh nghiệm của mình để soạn giảng và vận dụng vào thực tế tôi nhận thấy có sự thay đổi đáng mừng:
 - Học sinh đã có thái độ học tập tích cực, thích thú hơn trong tiết học, chủ động nêu lên những thắc mắc, khó khăn về bộ môn với giáo viên, các em hưởng ứng rất nhiệt tình. Bên cạnh đó bài tập giao về nhà đã được các em làm một cách nghiêm túc, tự giác học bài và nắm được kiến thức cơ bản sau khi học xong mỗi bài.
 - Phần lớn các bài kiểm ta đã được nâng lên, các em vẽ hình đúng, xác định hướng đi bài toán, số học sinh chứng minh lôgíc và chặt chẽ được tăng.
 - Từ những bài học đa số các em đều vận dụng vào thực tiễn các kiến thức như: đo đác, cắt hình, xác định tính đối xứng của vật thể....
Cuối học kỳ I điều tra hứng thú học môn Hình học ủa lớp 8B cho kết quả là: 
Tổng số HS
Số HS có hứng thú
Số HS không có hứng thú
SL
%
SL
%
44
31
70.5
13
29.5
 So với đầu học kỳ I số học sinh hứng thú với phân môn Hình học tăng lên 54.5%
 Kết quả khảo sát chất lượng học k ỳ I phân môn Hình học thật đáng phấn khởi :
TSHS
Khá giỏi
Trung bình
Yếu kém
SL
%
SL
%
SL
%
44
24
54.5
13
29.5
7
16
2. Điều kiện áp dụng.
 Từ kết quả áp dụng trong thực tế giảng dạy Toán học của bản thân, tôi nhận thấy đề tài “ Một số biện pháp gaâ hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học 8” có thể áp dụng với tất cả các đối tượng học sinh khối 8 trong các nhà trường phổ thông, với tất cả những người làm công tác giảng dạy Toán.
 3. Kiến nghị đề xuất.
 Để làm tốt và hiệu quả hơn công tác giáo dục, giảng dạy Toán học nói chung, Hình học nói riêng trong nhà trường THCS, tôi xin mạnh dạn đề xuất một vài ý kiến nhỏ sau:
 - Các cáp lãnh đạo tổ chức thường xuyên các cuộc hội thảo, chuyên đề bàn về phương pháp dạy học Toán theo hai phân môn: đại số và hình học để cán bộ giáo viên được trao đổi nhiều hơn nữa nhằm học hỏi, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ.
 - Tạo điều kiện hơn về đồ dụng dạy học nhằm phát huy hiệu quả dạy học.
4. Bài học kinh nghiệm.
 Thực tiễn dạy học trong thời gian qua và việc áp dụng phương pháp trên vào quá trình giảng dạy, tôi đã rút ra một số bài học cơ bản sau:
 Một là: Mỗi giáo viên phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng, rèn luyện để không ngừng trau dồi về kiến thức, kỹ năng dạy học nói chung, Hình học nói riêng. Nâng cao và rèn luyện kỹ năng sư phạm ở độ nhuần nhuyễn.
 Hai là: Thường xuyện đổi mới về cách soạn, cách giảng; đưa các ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, đa dạng hóa các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học để lôi cuốn được học sinh vào quá trình học tập.
 Ba là: Cần quan tâm sâu sát đến từng đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu kém, giúp đỡ ân cần, nhẹ nhàng, tạo niềm tin, hứng thú cho các em trong môn học.
 Bốn là: Trong quá trình giảng dạy giáo viên phải hướng học sinh vào việc phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, tạo ra những tình huống có vấn đề để học sinh thảo luận. Trong mỗi tiết học phải tạo ra được sự giao lưu đa chiều giữa giáo viên - học sinh, học sinh - học sinh, giữa các tổ - nhóm.
 Năm là: Giáo viên cần mạnh dạn đưa các ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học như các phàn mềm vẽ hình, các loại máy đa năng, các hiệu ứng hình ảnh để tiết học thêm sinh động.
KẾT LUẬN
 Sau khi nghiên cứu và triển khai vấn đề này bản thân tôi nhận thấy: để tạo cho học sinh hứng thú học phân môn Hình học 8 giáo viên phải từng bước tạo hứng thú cho học sinh qua việc tìm hiểu kiến thức mới, thông qua các buổi thực hành, qua việc phân loại bài tập, vẽ hình ... Đồng thời phải luôn gần gũi, tìm hiểu những khó khăn, sở thích của học sinh để từ đó có những biện pháp phù hợp hơn. Bên cạnh đó cần có thời lượng phù hợp áp dụng kiến thức hình học vào thực tiễn đời sống và để học sinh thấy được tính khoa học, giá trị thực tiễn của bộ môn.
 Trên đây là một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môm Hình học 8 mà bản thân tôi đã nghiên cứu, thực hiện và đã có nhiều thay đổi trong quá trình học tập của học sinh. Xin mạnh dạn đưa ra trao đổi với đồng nghiệp để cùng áp dụng nhằm đưa kết quả dạy học môn Toán nói chung, phân môn Hình học nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng toàn diện. Rất mong được sự góp ý từ đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo để thực sự đề tài này là một sáng kiến phổ biến sâu rộng.
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
 Phần I : Những vấn đề chung
1
1. Lí di chọn đề tài
1
2. Mục đích của đề tài.
2
 Phần II: Nội dung nghiên cứu.
4
1.Thực trạng.
4
1.1. Những vấn đề cơ sở lí luận.
4
1.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
4
2. Những giải pháp.
6
 Phần III: Kết quả đạt được và ý kiến đề xuất.
12
1. Kết quả đạt được.
12
2. Điều kiện áp dụng.
13
3. Ý kiến đề xuất.
13
4. Bài học kinh nghiệm.
13
Kết luận
14
Mục lục
15
Tư liệu tham khảo
16
TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quýet 4 BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII.
2. Nghị quyết 2 BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII.
3. Văn kiện Đại hội Đảng khóa VIII.
4. Luật giáo dục 2005.
5. Chỉ thị về phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện , học sinh tích cực”.
6. Sổ tay tích lũy nghiệp vụ sư phạm.
7. Tài liệu hướng dẫn phần mềm tin học.
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài: Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học 8.
Người thực hiện: Phạm Văn Sỹ.
Đơn vị công tác : Trường THCS Quảng Lộc.

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN TOAN 8(7).doc