PHẦN A: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1. Cơ sở lý luận:
Nhằm để nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng bộ môn nói riêng, việc bồi bưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, cải tiến phương pháp dạy học là rất cần thiết. Bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, việc phát huy tính tích cực của học sinh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi vì xét cho cùng, công việc giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động, việc khơi dậy ý thức và phát triển năng lực tư duy, bồi dưỡng phương pháp tự học là con đường phát triển tối ưu của giáo dục. Đây là một hoạt động có vai trò rất quan trọng vì nó thể hiện ý chí quyết tâm, tinh thần cầu tiến của mỗi người học, giúp họ tự chiếm lĩnh tri thức và làm chủ tri thức.
Trong khuôn khổ trường THCS, bài tập vật lý là một phương tiện hữu hiệu giúp người học rèn luyên kỹ năng tự học của mình. Tiết bài tập vật lý chính là cơ hội giúp người học có điều kiện trãi nghiệm thực tế, trau dồi kinh nghiệm, hiểu được các khái niệm, định luật vật lý một cách sâu sắc hơn, biết vận dụng chúng vào những vấn đề thực tế trong cuộc sống và trong lao động, rèn luyện rất nhiều kỹ năng tốt và cần thiết.
UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH TRƯỜNG THCS NGUYỄN MINH TRÍ --------T-------- ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM LÀM THẾ NÀO ĐỂ DẠY TỐT TIẾT BÀI TẬP VẬT LÍ Người thực hiện: Lê Thị Ngọc Quý Chức vụ : Giáo viên Thuộc tổ: Toán - Lý Năm học: 2011 - 2012 PHẦN A: MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1. Cơ sở lý luận: Nhằm để nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng bộ môn nói riêng, việc bồi bưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, cải tiến phương pháp dạy học là rất cần thiết. Bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, việc phát huy tính tích cực của học sinh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi vì xét cho cùng, công việc giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động, việc khơi dậy ý thức và phát triển năng lực tư duy, bồi dưỡng phương pháp tự học là con đường phát triển tối ưu của giáo dục. Đây là một hoạt động có vai trò rất quan trọng vì nó thể hiện ý chí quyết tâm, tinh thần cầu tiến của mỗi người học, giúp họ tự chiếm lĩnh tri thức và làm chủ tri thức. Trong khuôn khổ trường THCS, bài tập vật lý là một phương tiện hữu hiệu giúp người học rèn luyên kỹ năng tự học của mình. Tiết bài tập vật lý chính là cơ hội giúp người học có điều kiện trãi nghiệm thực tế, trau dồi kinh nghiệm, hiểu được các khái niệm, định luật vật lý một cách sâu sắc hơn, biết vận dụng chúng vào những vấn đề thực tế trong cuộc sống và trong lao động, rèn luyện rất nhiều kỹ năng tốt và cần thiết. 2. Cơ sở thực tiễn: Qua thực tế giảng dạy Vật lý ở trường THCS nói chung và bộ môn Vật lý 8 nói riêng, tôi nhận thấy rằng học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng khi giải các bài tập vật lý. Đồng thời, trong phân phối chương trình việc rèn luyện kỹ năng giải bài tập vật lý bậc THCS gần như chưa được chú trọng, trong cả 2 khối học 6, 7 đều không có giờ bài tập và luyện tập nào, riêng khối 8 thì chỉ được bố trí 1 tiết/học kì. Điều đó làm cho đa số học sinh THCS còn nhiều hạn chế hay nói cách khác là còn rất yếu. 100% giáo viên vật lý cho rằng: “Không có thời gian dành cho việc rèn luyện kỹ năng giải bài tập cho học sinh” nên phần lớn học sinh chưa nắm được phương pháp giải bài tập vật lý, nhất là đối với bài tập định lượng. Mặt khác, trong các tài liệu thiết kế giáo án, trong sách giáo viên thì bài soạn của một tiết bài tập hầu như không có và cũng không được chú trọng. Vì thế giáo viên vật lý cảm thấy rất lúng túng khi tổ chức soạn giảng một tiết bài tập vật lý. Hoặc nếu có thì mỗi người một vẻ không có sự thống nhất hoặc một yêu cầu cụ thể nào. Thậm chí có một số giáo viên khi đến tiết bài tập chỉ gọi học sinh lên giải một số bài tập trong sách giáo khoa rồi nhận xét và cho điểm, cứ như thế tiết bài tập diễn ra một cách đơn điệu, khô khan, tẻ nhạt và có lẽ vì thế mà học sinh càng trở nên chán học, bế tắt, và tất nhiên là việc hình thành thói quen tự học, giáo dục kỹ năng và phương pháp giải bài tập cho học sinh sẽ không hiệu quả. Vì vậy tôi quyết định chọn đề tài này. II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 1. Mục đích: Việc nghiên cứu này nhằm mục đích giúp giáo viên có thêm một số kinh nghiệm trong khi dạy một tiết bài tập vật lý. Qua đó, giúp học sinh củng cố được kiến thức, rèn luyện được các kỹ năng và phương pháp giải bài tập, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn vật lý trong nhà trường. 2. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện tốt đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm dạy học. - Phương pháp điều tra (điều tra về thực trạng dạy tiết bài tập vật lý ở các lớp trong nhà trường). - Phương pháp nêu vấn đề, gợi mở, phát huy tính tích cực của học sinh. - Phương pháp thống kê, phân tích và so sánh. - Phương pháp trò chuyện, tư vấn với đồng nghiệp và học sinh. - Phương pháp tương tác với tài liệu, sách vở. III. ĐỐi TƯỢNG VÀ GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI: 1. Đối tượng: - Các tiết bài tập vật lý cho học sinh khối 8. 2. Giới hạn của đề tài: - Chỉ chú trọng những sai sót về kỹ năng, kiến thức của học sinh để có phương án đề xuất cho phù hợp trong các tiết bài tập. - Cách tiến hành một tiết bài tập vật lý. Trong đó, có chú trọng rèn luyện phương pháp giải bài tập vật lý và phát huy tính tích cực, tự giác cho học sinh. IV. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN: 1. Tìm hiểu những khó khăn vướng mắc của giáo viên trong việc tổ chức dạy một tiết bài tập vật lý, những bất cập trong chương trình, chuẩn kiến thức kỹ năng, những khó khăn, khiếm khuyết của học sinh trong quá trình sử dụng bài tập vật lý và cả chất lượng dạy học bộ môn này tại đơn vị. 2. Nghiên cứu nội dung chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình vật lý 8. 3. Nghiên cứu lý luận về giáo dục tính tự lập, tích cực tư duy, tự học ở lớp và tự học ở nhà. 4. Nghiên cứu lý luận về phương pháp giải bài tập vật lý. 5. Nghiên cứu lý luận về sử dụng các dạng bài tập trong dạy học vật lý. PHẦN B: NỘI DUNG ĐỀ TÀI I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI: - Mỗi môn học có những mục tiêu riêng. Chương trình vật lý THCS có mục hoàn thiện cho học sinh kiến thức phổ thông, cơ bản, cần thiết để học tiếp cấp THPT hoặc đi vào các ngành cao đẳng, kỷ thuật và để sống trong một xã hội công nghiệp hiện đại. Trong đó, kỹ năng vận dụng kiến thức: giải thích hiện tượng vật lý, giải bài tập vật lý phổ thông là một trong những mục tiêu không thể thiếu đối với môn học. - Tiết bài tập nhằm giúp học sinh củng cố, khắc sâu kiến thức, qua đó hình thành sự hứng thú học tập môn vật lý, tính tích cực học tập và nghiên cứu. Từ đó, giúp các em định hướng nghề nghiệp trong tương lai. II.CƠ SỞ THỰC TIỄN: - Hiện nay trong các kì thi, môn vật lý thường được tổ chức bằng hình thức tự luận nên việc hình thành phương pháp giải bài tập, và rèn luyện khả năng tự học, tự tìm tòi phát hiện cho học sinh là rất cần thiết. - Qua thống kê chất lượng học tập môn vật lý còn thấp so với các môn học khác. - Học sinh trường THCS Nguyễn Minh Trí đa phần là học sinh có hoàn cảnh khó khăn, phụ huynh ít quan tâm đến việc hướng dẫn con em tự học ở nhà, trình độ nhận thức của học sinh ở mỗi lớp học không đều nhau nên việc vận dung bài tập, tư duy tự học khó có thể thực hiện được. - Một số khác phụ huynh cho rằng “không biết gì để dạy” nên chỉ việc cho tiền các em mua sách giải rồi tự chép vào vở “trả lễ” cho xong, mỗi khi giáo viên có yêu cầu chứ chẳng hiểu gì. - Một số giáo viên còn xem nhẹ tiết bài tập, hoặc lúng túng không biết dạy tiết bài tập như thế nào vì trong sách giáo viên không có hướng dẫn thực hiện. - Hệ thống câu hỏi, bài tập giáo viên đưa ra chưa phong phú, chưa kích thích hứng thú học tập, kích thích tư duy của học sinh hoặc nội dung không phù hợp với năng lực nhận thức của từng đối tượng học sinh. Chính vì vậy nên việc dạy một tiết bài tập vật lý thể hiện đúng mục tiêu môn học sẽ góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn nói riêng và góp phần làm cho chất lượng giáo dục của nhà trường ngày một cải thiện. Từ đó phát hiện, bồi dưỡng nguồn nhân lực, sẵn sàng tham gia các hội thi đem lại thành tích vẻ vang cho nhà trường. III. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG MÂU THUẨN: - Tiết bài tập trong phân phối chương trình còn rất ít, mặc dù gần đây theo phân phối chương trình giảm tải đã có điều chỉnh một số tiết ôn tập, luyện tập nhưng chưa có nghiên cứu nào, quy định hay hướng dẫn nào để thực hiện một tiết bài tập hoàn chỉnh. Tiết bài tập chủ yếu là do mỗi giáo viên tự thiết kế theo ý riêng của mình vì thế chất lượng của tiết bài tập còn phụ thuộc vào tính chủ quan của cá nhân người thầy, khả năng tìm hiểu đối tượng học sinh, trình độ và năng lực sư phạm của mỗi giáo viên - Khi thiết kế một tiết bài tập thường không có sự khái quát, kết luận về từng vấn đề nên học sinh khó có thể nhận dạng được một phương pháp giải bài tập liên quan. - Đa số bài tập ở SGK chỉ dừng lại ở mức độ củng cố, đôi khi còn thiếu so với lượng kiến thứcđã nêu trong lý thuyết. Do đó dẫn đến tình trạng học sinh khá giỏi không thể phát huy được khả năng, còn học sinh ở mức độ trung bình trở xuống thì bế tắt khi gặp dạng bài tập khác. - Kỹ năng vận dung toán học trong việc giải giải bài tập vật lý còn hạn chế đối với một bộ phận không nhỏ học sinh. - Trong bộ SGK, một số đơn vị kiến thức không trình bày ở nội dung trọng tâm của bài nhưng lại cho bài tập trong sách bài tập, nếu giáo viên không chịu tìm hiểu thì học sinh không biết đâu mà giải khi gặp loại bài tập này. - Thời lượng 1tiết không đủ để các em luyện tập với tất cả các dạng bài tập mà ý thức tự học của HS lại rất kém, các em không chuẩn bị trước ở nhà, thậm chí bài tập dặn về nhà các em cũng không tự giải Sau đây là kết quả khảo sát chất lượng các lớp tôi phụ trách khi chưa áp dụng đề tài: LỚP TS HỌC SINH ĐIỂM SỐ 0 - 2 2.5 – 4.5 5 – 6.5 7 – 8.5 9 - 10 8A1 32 0 9 13 6 4 8A2 29 5 10 12 2 0 8A3 30 2 8 11 6 3 8A4 30 3 6 18 2 1 TC 121 10 33 54 16 8 Þ Để khắc phục những khó khăn trên, bản thân tôi thấy cần phải thực hiên các biện pháp sau: IV. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 1. Cơ sở đề xuất giải pháp: - Căn cứ vào yêu cầu cụ thể của việc dạy và học môn vật lý bậc THCS. - Căn cứ vào yêu cầu nâng cao chất lượng, rèn luyện kỹ năng trong học tập và thực hiện chủ đề năm học. - Căn cứ vào thực trạng của việc dạy tiết bài tập và kỹ năng giải bài tập đã nêu trên. 2. Các giải pháp chủ yếu: a/. Chuẩn bị: Để có một tiết dạy tốt cần phải có sự chuẩn bị chu đáo: - Trước mỗi tiết bài tập có rất nhiều tiết lý thuyết, trong mỗi đơn vị kiến thức của lý thuyết cần nêu bật được nội dung chính, đưa ví dụ minh hoạ từ đó hình thành phương pháp giải bài tập về loại vấn đề đó. - Khi đến tiết bài tập, giáo viên lựa chọn loại và số lượng bài tập phù hợp (không nhất thiết là các bài tập ở SGK). - Chuẩn bị các bài tập nâng cao, mở rộng vấn đề cho học sinh khá giỏi và cả những bài tập vận dụng vừa sức cho học sinh trung bình – yếu để khích lệ các em. - Chuẩn bị phiếu học tập ( hoặc các bài tập trắc nghiệm) để củng cố sự tiếp thu của học sinh, thống kê những thiếu sót, rút kinh nghiệm cho các tiết sau. * Như vậy, bước chuẩn bị đóng vai trò rất quan trọng cho tiết bài tập trên lớp sau này. b/. Soạn bài: Xác định cho được mục tiêu của tiết dạy: sau tiết học, học sinh phải hiểu và vận dụng những kiến thức, kỹ năng nào? Tùy theo trình độ của từng lớp học mà có thể giảm bớt hay tăng thêm một số yêu cầu cho phù hợp. c/. Thực hiện tiết lên lớp: Có thể tiến hành theo các hoạt động chính sau đây: Hoạt động 1:Hướng dẫn các bước cơ bản để giải một bài tập vật lý. Muốn giải một bài tập vật lý chúng ta cần thực hiện những bước cơ bản sau: Bước 1: Đọc kỹ đề và viết tóm tắt các dữ kiện. - Đọc kỹ đề bài (khác với thuộc đề bài), tìm hiểu ý nghĩa của thuật ngữ, có thể phát biểu tóm tắt ngắn gọn và chính xác. - Dùn ... ụ: Câu C7 của bài 10: Lực đẩy Acsimet. Đây là dạng bài tập rất ít khi gặp, đặc biệt là đối với chương trình vật lý 8. Để giải tốt dạng bài tập này đòi hỏi học sinh phải nắm vững lý thuyết, hiểu sâu sắc các bản chất, các nguyên lý vật lý. Đồng thời, phải có kỹ năng thực hành, từ đó hình thành và giáo dục kỹ thuật lao động, giáo dục hướng nghiêp, giúp người học sinh phát triển toàn diện. Là giáo viện, để dạy thành công dạng bài tập này càng phải có kỹ năng thí nghiệm thực hành thật điêu luyện, sẵn sàng trợ giúp học sinh trong mọi hoạt động chiếm lĩnh tri thức của mình. (Lưu ý giáo viên chỉ trợ giúp chứ không làm thay). Ngoài ra trong khi dạy bài tập vật lý, giáo viên cũng có thể sáng tạo ra một số bài tập dạng trò chơi nhằm có sức lôi cuốn với các em học sinh hơn. Ví dụ như: trò chơi giải ô chữ, ghép hình, đuổi hình bắt chữ, . . . Hoạt động 3: Dùng phiếu học tập , cho thảo luận nhóm rút ra kết quả. * Câu 1: Người ta thả 3 miếng: đồng, nhôm, chì có cùng khối lượng vào 1 cốc nước nóng. Hãy so sánh nhiệt độ cuối cùng của 3 miếng kim loại trên bằng cách chọn các câu trả lời sau: A. Nhiệt độ của miếng đồng cao nhất, của chì thấp nhất. B. Nhiệt độ của miếng nhôm cao nhất, của chì thấp nhất C. Nhiệt độ của miếng chì cao nhất, của nhôm thấp nhất. D. Nhiệt độ của 3 miếng bằng nhau. * Câu 2: Người ta thả 3 miếng: đồng, nhôm, chì có cùng khối lượng và được đun nóng tới 1000C vào 1 cốc nước lạnh.Nhiệt lượng miếng kim loại nào truyền cho nước lớn nhất? bé nhất? A.Nhiệt lượng của 3 miếng truyền cho nước bằng nhau. B.Nhiệt lượng của miếng nhôm truyền cho nước lớn nhất, của chì nhỏ nhất. C.Nhiệt lượng của miếng chì truyền cho nước lớn nhất, của nhôm nhỏ nhất. D.Nhiệt lượng của miếng đồng truyền cho nước lớn nhất, của chì nhỏ nhất. * Câu 3: Chọn câu đúng, sai: a) Khi dùng nhiệt kế để xác định nhiệt độ của một vật, phải tạo ra sự cân bằng nhiệt giữa nhiệt kế và vật. b) Máy điều hoà nhiệt độ thu nhiệt lượng trong phòng để toả nhiệt lượng ra không khí ngoài. Áp dụng phương trình cân bằng nhiệt ta có: Q toả ra = Qthu vào Hoạt động 4: Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà. Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy với cấu trúc của chương trình vật lý THCS có rất ít tiết bài tập, thời lượng của một tiết trên lớp có hạn, học sinh chủ yếu tiếp thu kiến thức về lý thuyết một cách cơ bản hoặc chỉ giải các bài tập đơn giản, số tiết học chỉ có 1 tiết/ tuần đối với khối 6,7,8 và 2 tiết/ tuần đối với khối 9. Vì thế không có đủ thời gian để giáo viên mở rộng và nâng cao kiến thức, kỹ năng giải bài tập cho học sinh, cũng như việc phát huy tính tích cực tư duy của học sinh theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học cũng bị hạn chế. Để khắc phục những bất cập này, tôi cho rằng “Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà” là rất cần thiết. - Việc học sinh tự học ở nhà có một ý nghĩa lớn lao về mặt giáo dục, giáo dưỡng. Nếu việc học ở nhà của học sinh được tổ chức tốt sẽ giúp các em thói quen làm việc tự lực , giúp các em nắm vững tri thức, có kỹ năng , kỹ xảo. Ngược lại, nếu việc học ở nhà của học sinh không được quan tâm tốt sẽ làm cho các em quen thói cẩu thả , có thái độ tắc trách đối với việc thực hiện nhiệm vụ của mình dẫn đến nhiều thói quen xấu cản trở đến việc học tập. - Công việc học tập ở nhà của học sinh có những đặc điểm riêng sau: + Tiến hành trong một thời gian ngắn, không có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên, mặc dù đấy là công việc chính giáo viên giao cho học sinh phải tự mình hoàn thành, tự kiểm tra công việc mình làm. + Công việc này được thực hiện tuần tự theo hứng thú, nhu cầu và năng lực của học sinh. + Dễ bị chi phối bởi ngoại cảnh khác. - Có thể coi quá trình học tập của học sinh ở nhà bao gồm các giai đoạn: trước hết phải nhớ lại những điều đã học ở lớp sau đó rèn luyện sáng tạo. Mỗi giai đoạn có một nội dung công việc cụ thể. - Việc học tập của học sinh ở nhà phụ thuộc phần lớn việc dạy học trên lớp của giáo viên. Vì vậy giáo viên cần phải căn cứ vào tình hình tiếp thu kiến thức của học sinh mà giao cho các em những công việc có tính chất bổ sung phục hồi tài liệu đã học như: nghiên cứu sách giáo khoa, vẽ hình - Trong khi dạy vấn đề nào đó cần suy nghĩ việc giao cho học sinh các bài tập ở nhà. Chính việc giao bài tập một cách có hệ thống đảm bảo cho việc học tập của học sinh có một quy luật chặt chẽ, nhờ đó mà học sinh có thể tự lực giải quyết các bài tập kể cả những bài tập khó, vì đã có sự chuẩn bị ở các bài tập dễ. Việc học sinh hoàn thành tốt các bài tập ở nhà không những giúp các em nắm vững tri thức đã học cũng như rèn luyện kỹ năng , kỹ xảo cần thiết, mà còn giúp các em chuẩn bị tốt nhất cho việc tiếp thu kiến thức mới. Vì thế bên cạnh những bài làm phục hồi, luyện tập và sáng tạo trên cơ sở kiến thức đã học cần phải giao cho học sinh những bài mang những yếu tố chuẩn bị cho việc tiếp thu tri thức mới. Có như vậy mới đảm bảo được việc tiếp thu một cách tích cực và tự lực. Ta có thể giao bài tập cho học sinh bằng nhiều hình thức: + Giao bài tập trong thời gian truy bài đầu giờ. + Giao bài tập sau tiết học. + Giao bài tập theo hệ thống bài tập SGK, SBT, sách tham khảo + Giao bài tập theo dạng, theo chuyên đề. - Một biện pháp quan trọng nữa để đảm bảo công tác hướng dẫn học ở nhà có kết quả là cần có những biện pháp kiểm tra, động viên, khích lệ kịp thời và phù hợp: + Kiểm tra vở ghi, vở bài tập. + Cho điểm khuyến khích những học sinh có nhiều cố gắng hoặc chuyển biến trong học tập, - Ngoài ra, để phát huy tối ưu hiệu quả của việc tự học ở nhà, giáo viên cần có sự phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh để nhận được sự hỗ trợ, giám sát và trợ giúp học sinh những lúc gặp khó. Được như thế tôi tin rằng chất lượng giáo dục ngày một nâng lên là điều hoàn toàn có thể. V. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG: Đề tài này đã được áp dụng cho tất cả học sinh khối 8 của trường THCS Nguyễn Minh Trí. Sau thời gian 6 tháng thực hiện (kể từ đầu năm học đến giờ), đề tài đã đem lại hiệu quả giáo dục nhất định. Hiện tại số học sinh yếu kém của bộ môn giảm rõ rệt, số học sinh yêu thích bộ môn tăng lên và các em đã đăng ký học bồi dưỡng học sinh giỏi vật lý 8 cũng khá nhiều. Khi triển khai trong tổ chuyên môn, đề tài đã được hầu hết đồng nghiệp đồng tình hưởng ứng. Sắp tới tôi sẽ tham mưu cùng với Hội đồng khoa học của trường để triển khai rộng rãi cho các bộ môn khác. Thời gian còn lại, tôi sẽ cố gắng thực hiện đề tài và luôn lắng nghe những ý kiến đóng góp của tất cả bạn bè đồng nghiệp để đem lại hiệu quả cao nhất cho việc ứng dụng đề tài này. PHẦN C: KẾT LUẬN I. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC: Có thể nói việc áp dụng đề tài “Làm thế nào để dạy tốt tiết bài tập vật lý” vào công tác giảng dạy ở nhà trường đã thực sự tạo nên sức lan tỏa mạnh mẽ. Nó không chỉ góp phần nâng cao chất lượng dạy học mà còn lôi cuốn sự yêu thích bộ môn, khơi dậy niềm tin ở các em, kích thích tinh thần tự học, tự nghiên cứu. Thông qua việc dạy tiết bài tập, giáo viên còn giúp các em hình thành các kỹ năng sống cần thiết như tinh thần hợp tác, khả năng đàm phán, kỹ năng giao tiếp, kỹ thuật lao động và hướng nghiệp, Từ đó, giúp người giáo viên tự nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ, nhận xét, đánh giá và tự điều chỉnh bản thân mình. II. KẾT QUẢ ÁP DỤNG: Sau khi áp dụng các biện pháp đã nêu trên vào thực tế khối lớp 8 của trường, tôi nhận thấy rằng đã có một số chuyển biến tích cực ở chất lượng học sinh. Đa số học sinh nắm được các kiến thức cơ bản của chương trình và đã định hướng được phương pháp giải bài tập một cách hợp lý. Đa số học sinh đã biết vận dụng kiến thức đã học để giải được các bài tập đơn giản. Sau đây là kết quả kiểm tra chất lượng giữa học kỳ II Lớp TSHS Điểm số 0 – 2 2,5 – 4,5 5,0 – 6,5 7,5 – 8,5 9,0 – 10 8A1 32 0 0 8 14 10 8A2 29 1 4 10 12 2 8A3 30 0 2 9 10 9 8A4 30 0 3 14 11 2 TC 121 1 9 41 47 23 III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ HƯỚNG PHẤN ĐẤU: * Trong quá trình rèn luyện khả năng giải bài tập cho học sinh tôi nhận thấy ngoài áp dụng các biện pháp đã nêu trên thì nên thực hiện một số vấn đề sau : - Phải tìm hiểu tâm sinh lý từng học sinh để có biện pháp bồi dưỡng thích hợp với từng đối tượng. - Cần tạo không khí sinh động, thoải mái cho lớp học để học sinh không cảm thấy tiết bài tập khô khan và hăng hái luyên tập. - Nên giao bài tập từ dễ đến khó để khuyến khích học sinh, giúp các em tự tin hơn trong học tập. - Nên dành bài tập, câu hỏi dễ cho học sinh yếu và khen ngợi các em nếu các em làm đúng để tạo sự tự tin và kích thích tinh thần học tập của các em. - Cần phải có thời gian để kiểm tra kiến thức cơ bản trước khi làm bài tập. - Luôn luôn nêu vấn đề để học sinh hứng thú tìm hiểu. - Phải chú trọng giáo dục tính tự học cho học sinh, không chỉ tự học ở lớp mà còn tự học ở nhà. * Trên phạm vi tổ chuyên môn và giới hạn nghiên cứu ở học sinh khối 8, bước đầu đã được đồng nghiệp và học sinh đón nhận vì thế tôi sẽ phát triển đề tài hơn nữa trong thời gian sắp tới để được ứng dụng rộng rãi với nhiều đối tượng hơn (kể cả khối 6,7,9) và phát huy hiệu quả giáo dục được mĩ mãn hơn. * Tóm lại, thiết kế dạy tiết bài tập được tiến hành thường xuyên trong quá trình dạy học. Việc đầu tư, chuẩn bị càng cao thì hiệu quả mang lại càng lớn.Với những lớp khá – giỏi có thể thực hiện tiết dạy này bằng giáo án điện tử, khi đó lượng bài tập cung cấp cho tiết học sẽ được nhiều hơn.Tiết bài tập là tiết học quan trọng, giúp học sinh củng cố được lý thuyết, hiểu sâu hơn những vấn đề trừu tượng, rèn luyện kỷ năng giải bài tập là điều không thể thiếu khi học Vật Lý. Chính vì thế, thiết kế dạy tiết bài tập đòi hỏi rất nhiều phẩm chất chuyên môn, sự yêu nghề, tận tụy với công việc của người giáo viên. Thiết kế dạy tiết bài tập tốt, là tiền đề để có một tiết dạy tốt, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng dạy học của bộ môn và chất lượng giáo dục của nhà trường. IV. ĐỀ XUẤT – KIẾN NGHỊ: 1. Với cấp Bộ: - Bài tập ở Sách Giáo Khoa, sách bài tập, nên phân theo từng chủ đề, có ví dụ mẫu - Bài tập gồm cả tự luận và trắc nghiệm khách quan dưới tất cả các mức độ và có nhiều dạng bài tập hơn, nhất là tăng cường những bài tập thí nghiệm, bài tập sơ đồ hay các trò chơi vật lý.. . 2.Với Lãnh đạo trường và tổ chuyên môn: - Tăng thêm tiết bài tập cho những lớp yếu – kém.. - Dùng các tiết tự chọn cho hợp lý và phù hợp với đặc điểm của từng lớp học. - Làm ngân hàng bài tập cho từng loại chủ đề của từng khối lớp, dùng chung cho ôn tập kiểm tra trong tổ. Trên đây là một số ý kiến của tôi về những biện pháp giúp dạy tốt tiết bài tập vật lý. Kính mong quý thầy cô đóng góp ý kiến để chuyên đề hoàn thiện hơn nhằm nâng cao chất lượng bộ môn. Xin cảm ơn và trân trọng kính chào! DUYỆT CỦA HĐKH TRƯỜNG NGƯỜI THỰC HIỆN LÊ THỊ NGỌC QUÝ
Tài liệu đính kèm: