A.Phần mở đầu:
I.Lý do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, công tác giáo dục là một vấn đề lớn luôn được toàn xã hội quan tâm, đặc biệt là giáo dục thế hệ trẻ. Chất lượng giáo dục đóng một vai trò hết sức quan trọng trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Đất nước ta đang trên đà tiến lên công nghiệp hóa-hiện đại hóa, từng bước thực hiện mục tiêu vì: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Muốn hoàn thành mục tiêu này, đòi hỏi phải đào tạo được nguồn nhân lực có tri thức, có sức khỏe, có lý tưởng và niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước. Do đó, chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo luôn được coi trọng và ưu tiên đầu tư xem đây như là quốc sách hàng đầu. Với tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta cũng như Bộ giáo dục và Đào tạo đã có nhiều Nghị quyết, Chỉ thị và nhiều văn bản nhằm chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai thực hiện việc đổi mới Chương trình Giáo dục phổ thông, đổi mới sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy-học ở tất cả các cấp học. Trong hơn một thập niên qua việc đổi mới phương pháp giảng dạy đã được hầu hết giáo viên quán triệt và tích cực thực hiện một cách có hiệu quả. Có thể thấy rằng, việc dạy và học môn Tiếng Anh hiện nay ở cấp THCS đang có nhiều cải tiến đáng kể về phương pháp dạy-học. Mục đích của việc đổi mới phương pháp là làm thế nào để thu hút học sinh vào bài học, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình lĩnh hội kiến thức, giúp các em hiểu và vận dụng bài học ngay trên lớp. Vì thế, phương pháp lấy người “Học làm trung tâm” là phương pháp dạy học tích cực. Bên cạnh đó việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào trường học cũng được giáo viên hưởng ứng mạnh mẽ, qua đó tạo được cho học sinh có nhiều hứng thú và say mê hơn trong học tập, chất lượng giáo dục từ đó được nâng lên một cách rõ rệt qua từng năm học.
Đề tài GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG HỌC SINH YẾU KÉM MÔN TIẾNG ANH KHỐI 9 ******* A.Phần mở đầu: I.Lý do chọn đề tài: Như chúng ta đã biết, công tác giáo dục là một vấn đề lớn luôn được toàn xã hội quan tâm, đặc biệt là giáo dục thế hệ trẻ. Chất lượng giáo dục đóng một vai trò hết sức quan trọng trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Đất nước ta đang trên đà tiến lên công nghiệp hóa-hiện đại hóa, từng bước thực hiện mục tiêu vì: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Muốn hoàn thành mục tiêu này, đòi hỏi phải đào tạo được nguồn nhân lực có tri thức, có sức khỏe, có lý tưởng và niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước. Do đó, chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo luôn được coi trọng và ưu tiên đầu tư xem đây như là quốc sách hàng đầu. Với tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta cũng như Bộ giáo dục và Đào tạo đã có nhiều Nghị quyết, Chỉ thị và nhiều văn bản nhằm chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai thực hiện việc đổi mới Chương trình Giáo dục phổ thông, đổi mới sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy-học ở tất cả các cấp học. Trong hơn một thập niên qua việc đổi mới phương pháp giảng dạy đã được hầu hết giáo viên quán triệt và tích cực thực hiện một cách có hiệu quả. Có thể thấy rằng, việc dạy và học môn Tiếng Anh hiện nay ở cấp THCS đang có nhiều cải tiến đáng kể về phương pháp dạy-học. Mục đích của việc đổi mới phương pháp là làm thế nào để thu hút học sinh vào bài học, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình lĩnh hội kiến thức, giúp các em hiểu và vận dụng bài học ngay trên lớp. Vì thế, phương pháp lấy người “Học làm trung tâm” là phương pháp dạy học tích cực. Bên cạnh đó việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào trường học cũng được giáo viên hưởng ứng mạnh mẽ, qua đó tạo được cho học sinh có nhiều hứng thú và say mê hơn trong học tập, chất lượng giáo dục từ đó được nâng lên một cách rõ rệt qua từng năm học. Tuy nhiên, việc dạy và học bộ môn Tiếng Anh cũng có nhiều vấn đề đáng được quan tâm. Đây là môn học theo ý kiến của hầu hết các em học sinh đều cho là môn học khó, điều kiện học tập còn gặp nhiều khó khăn nhất là đối với các em thuộc địa bàn vùng sâu, học sinh cũng chưa thấy được tầm quan trọng của việc học Tiếng Anh cho tương lai nên chưa dành nhiều thời gian đầu tư cho môn học một cách nghiêm túc. Chính điều này đã dẫn đến tình trạng học sinh yếu kém ở bộ môn còn chiếm tỉ lệ khá cao. Vậy với vai trò là một giáo viên giảng dạy môn Tiếng Anh thì bản thân phải làm gì đối với học sinh yếu kém môn Tiếng Anh ? Đó chính là lý do tôi chọn để nghiên cứu đề tài:“Giải pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu kém môn Tiếng Anh khối 9”. Qua đề tài này tôi muốn chia sẽ với quý đồng nghiệp những kinh nghiệm mà tôi đã thực hiện có hiệu quả trong thời gian qua trong công tác phụ đạo học sinh yếu kém ở tại Trường THCS Tân Hội Trung. II.Mục đích và phương pháp nghiên cứu: 1.Mục đích: -Giúp học sinh yếu kém củng cố lại kiến thức cơ bản môn Tiếng Anh, nắm bắt lại những kiến thức bị hỏng từ các lớp dưới. -Giúp học sinh nâng cao ý thức tự giác trong học tập, có thói quen độc lập suy nghĩ, tự tin trong học tập, từng bước tự hoàn thiện bản thân. -Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Tiếng Anh 9 và chất lượng thi tuyển sinh vào lớp 10. 2.Phương pháp nghiên cứu: -Phương pháp nghiên cứu tài liệu. -Phương pháp thực nghiệm. -Phương pháp trao đổi trực tiếp. -Phương pháp thống kê số liệu, đối chiếu so sánh. III.Giới hạn của đề tài: Đề tài được nghiên cứu và thực hiện trong phạm vi học sinh khối 9 của Trường Trung Học Cơ Sở Tân Hội Trung. Mà cụ thể là ở lớp 9A2. IV. Kế hoạch thực hiện: *Thời gian thực hiện đề tài: Từ 15 / 8/ 2011 đến 15/ 5 / 2012. *Giáo viên bộ môn phải có kế hoạch cụ thể, chi tiết trong công tác phụ đạo học sinh yếu kém trong một năm học: -Thống kê tỉ lệ học sinh qua kết quả khảo sát chất lượng đầu năm. -Phân loại học sinh theo trình độ. -Xác định năng lực, trình độ và điều kiện học của học sinh. -Giúp học sinh hình thành phương pháp học tập tốt môn Tiếng Anh. B.Phần nội dung: I.Cơ sở lý luận: Ngày nay Tiếng Anh là ngôn ngữ quốc tế được hầu hết các nước trên thế giới sử dụng trong quá trình giao tiếp, giao lưu trên nhiều lĩnh vực. Nhận thức được tầm quan trọng đó, nên Bộ giáo dục và Đào tạo đã tiến hành cải cách sách giáo khoa Tiếng Anh theo hướng giao tiếp chú trọng vào việc dạy cho học sinh 4 kỹ năng: Nghe, Nói, Đọc, Viết. Nhằm tạo cho thế hệ tương lai sử dụng Tiếng Anh một cách thành thạo. Cũng như các môn học khác, môn Tiếng Anh cũng thực hiện theo trình tự đầy đủ các bước lên lớp, người giáo viên phải luôn vận dụng các phương pháp hữu hiệu để làm thế nào cho học sinh hiểu bài, say mê môn học và học tập đạt hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên học ngoại ngữ còn có nhiều khó khăn hơn so với các môn học khác. Hiện nay chương trình và sách giáo khoa đổi mới rất hay, song độ khó cũng cao hơn, đối với những học sinh đã bị mất căn bản thì khó theo kịp chương trình. Do trình độ học sinh không đồng đều, chính điều này đã dẫn đến tình trạng phân hóa học sinh ngày càng tăng, những em học sinh có năng lực tiếp thu tốt thì tiến bộ rất nhanh, nắm vững được kiến thức cơ bản và vận dụng được kiến thức vào thực hành. Bên cạnh đó vẫn còn nhiều học sinh rất cố gắng nhưng do các em chưa có phương pháp học phù hợp, với lại ở gia đình các em cũng không được chỉ dẫn nên các em dễ bị mất phương hướng không còn hứng thú, lơ là với môn học. Vì vậy, nhiều em không kham nỗi chương trình, dẫn đến tỉ lệ học sinh yếu kém ngày càng tăng, đây là điều mà không ít giáo viên quan tâm và trăn trở. Chính vì thế cần tìm hiểu, phân tích nguyên nhân dẫn đến tình trạng yếu kém của các em để có hướng tìm ra những biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả tối đa, tránh cho các em rơi vào những khó khăn thường trực trong quá trình học tập. II.Cơ sở thực tiễn: Hiện nay chất lượng dạy học môn ngoại ngữ còn thấp do nhiều nguyên nhân. Trước hết là do môn Tiếng Anh là một môn học hoàn toàn “khó”, đối với các em ở vùng sâu, kỹ năng giao tiếp xã hội còn hạn chế. Việc tiếp cận với ngôn ngữ nước ngoài gặp nhiều khó khăn. Thêm vào đó, phụ huynh và học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn học. Do đó chưa có sự đầu tư thời gian, công sức, chưa nỗ lực vượt khó học tập. Nhiều học sinh vào giờ học không chú ý tập trung, về nhà không chịu làm bài tập, không chịu khó rèn luyện học hỏi nên không thể tiến bộ được trong học tập. Môn Tiếng Anh đòi hỏi người học phải chịu khó, nhẫn nại, đầu tư nhiều thời gian, phải có phương pháp học hiệu quả. Thế nhưng, một số học sinh hầu như chỉ tập trung vào học các môn khác, ít chú ý đến việc trao dồi môn Tiếng Anh hoặc có tâm lý ngại khó, dựa vào các môn khác để kéo môn Tiếng Anh lên, chỉ xem đây là môn điều kiện. Tuy cùng học chung trong một lớp, nội dung chương trình giáo dục giống nhau, nhưng mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, các em đều có sự phát triển về thể chất và trí tuệ khác nhau, động cơ và thái độ học tập cũng khác nhau thì năng lực học tập, khả năng tiếp thu kiến thức của mỗi học sinh cũng phải khác nhau. Có học sinh tiếp thu bài rất nhanh, nhưng cũng có những em tiếp thu bài rất chậm, thậm chí là không hiểu gì thông qua các hoạt động dạy học trên lớp nhất là đối với môn Tiếng Anh. Đối tượng học sinh yếu kém vẫn luôn tồn tại trong quá trình giáo dục, tuy nhiên về số lượng học sinh yếu, kém nhiều hay ít và mức độ tiến bộ của của học sinh yếu, kém nhanh hay chậm trong quá trình giáo dục và rèn luyện mới là điều đáng quan tâm của riêng mỗi nhà trường. III.Thực trạng và những mâu thuẫn: 1.Thuận lợi: Được sự quan tâm của lãnh đạo Ngành, chuyên viên phụ trách khối Trung học cơ sở thuộc Phòng giáo dục và Đào tạo Huyện Cao Lãnh. Cùng với sự nhiệt tình quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường. Giáo viên bộ môn Tiếng Anh của nhà trường đạt chuẩn về trình độ đào tạo và luôn nhiệt tình trong công tác giảng dạy. Tham gia đầy đủ các buổi thao giảng, hội giảng do cụm tổ chức. Các buổi hội thảo, chuyên đề và các lớp tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ do Sở, Phòng giáo dục tổ chức. Đầu năm học 2011-2012, Trường đã được công nhận là Trường đạt chuẩn quốc gia, nên hầu hết giáo viên luôn ý thức được rằng việc duy trì chất lượng giáo dục của một trường đạt chuẩn là yếu tố rất quan trọng. Nhóm giáo viên bộ môn Tiếng Anh đề nghị nhà trường cho thành lập câu lạc bộ “Speaking Club” để các em học sinh của trường có nhiều cơ hội được trao dồi Tiếng Anh khi tham gia sinh hoạt câu lạc bộ hàng tuần. Bên cạnh đó cũng giúp các em rèn luyện và nâng cao kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, từng bước hoàn thiện khả năng giao tiếp bằng Tiếng Anh. Hướng dẫn để học sinh biết cách học Tiếng Anh qua mạng Internet, tham gia thi Olympic Tiếng Anh trên mạng Internet. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy-học bộ môn Tiếng Anh khá đầy đủ. Hầu hết các em học sinh đều có đầy đủ sách giáo khoa Tiếng Anh khi học tập. Phụ huynh học sinh cũng nhận thấy được việc học của con em mình là rất quan trọng nên thường xuyên tạo điều kiện cho học sinh phát huy hết khả năng. 2.Khó khăn: Nhận thức được vấn đề tôi tiến hành nghiên cứu, phân tích và tìm ra được những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng học sinh yếu như sau: -Hiện nay đa số học sinh học môn Tiếng Anh đều rất yếu, do mất căn bản bị hỏng kiến thức từ trước, các em yếu về các kỹ năng, chưa chăm chỉ say mê môn học, ngữ pháp và vốn từ vựng cơ bản còn quá ít không đáp ứng được yêu cầu của môn học. -Các em chưa biết cách học như thế nào để đạt hiệu quả cao, chưa có ý thức tự giác trong học tập, khả năng tiếp thu kiến thức ngôn ngữ cơ bản chậm và thấp, học vẹt và không có khả năng vận dụng kiến thức vào thực hành. -Một số học sinh khi học giờ Tiếng Anh chưa tập trung nghe giảng bài, ở nhà không học bài củ và chưa có thói quen chuẩn bị bài mới khi đến lớp. -Khả năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế chưa mạnh dạn trong học tập do hiểu bài chưa sâu, nắm chưa vững kiến thức, thiếu tự tin, thụ động và ngại phát biểu. -Các kỹ năng: Nghe, Nói, Đọc, đặt biệt là Viết còn nhiều hạn chế. -Ở cách xa trung tâm thành thị nên các em không có điều kiện tham gia học tại các Trung tâm ngoại ngữ để nâng cao trình độ. Không có dịp gặp gở và giao tiếp với người bản xứ nên cách phát âm của các em chưa được chuẩn, hay mắc cở và nhược điểm lớn nhất là sợ nói sai nên đa số các em còn e ngại. -Trường thuộc địa bàn vùng sâu đa số cuộc sống của gia đình các em phụ thuộc vào đồng ruộng là chính, nên việc học tập cũng chịu nhiều ảnh hưởng do công việc mùa vụ của gia đình. Một số gia đình không quan tâm đến kết quả học tập của các em, xem việc học là không cần thiết, học cho có, nếu không học nổi thì lại cho nghỉ ở nhà đi làm kiếm ... phụ đạo lần sau, sẽ kiểm tra tất cả các từ vựng mà đã yêu cầu các em học trong một tuần. Làm được như thế, đối với một em chịu học từ vựng một cách nghiêm túc thì chẳng bao lâu lượng từ vựng trong trí nhớ của các em sẽ được nâng lên rất nhiều. +Học sinh yếu về kỹ năng đọc: Vậy giáo viên phải có kế hoạch dạy cho các em đó trong tiết kỹ năng đọc. Có nhiều cách để dạy cho các em hoàn thiện kỹ năng này. Ví dụ trong tiết rèn luyện kỹ năng đọc giáo viên vẫn dạy bình thường, đến phần luyện đọc giáo viên đến bên cạnh những em đó bảo các em đó đọc bài và giáo viên có thể giúp các em những từ khó mà các em đọc chưa được dần dần học sinh sẽ đọc được và nâng cao dần lên. Trong phần đọc để tìm hiểu bài cũng cho học sinh yếu kém tham gia bình thường nhưng chỉ hỏi những câu hỏi dễ và gần gủi với các em để các em trả lời được. +Học sinh yếu về kỹ năng viết: Trong lớp học có học sinh viết không được bài viết theo yêu cầu hoặc không biết viết những câu đơn giản. Khi giáo viên dạy tiết kỹ năng viết thì cần lưu ý đến các em đó, không thể để các em đó ngoài tiết học. Ví dụ khi giáo viên nêu lên yêu cầu và giải thích dàn ý của bài viết thì đối với học sinh yếu kém giáo viên cho những em đó bài mẫu để các em tập viết hoặc yêu cầu học sinh đó viết vài câu trọng tâm của bài viết có sự giúp đỡ của giáo viên học sinh yếu sẽ quen dần và kỹ năng viết của các em được cải thiện dần. +Học sinh yếu về ngữ pháp: Trong một tiết học thì chúng ta phải cho tất cả các em hoạt động dù học sinh yếu hay học sinh giỏi bằng nhiều cách để lôi cuốn các em vào các hoạt động học tập, tránh tình trạng giáo viên để học sinh ngoài lề. Ví dụ trong tiết học Language Focus phần bài tập giáo viên phân ra cho từng đối tượng học sinh, bài luyện tập khó thì yêu cầu những học sinh khá giỏi, bài tập vừa thì yêu cầu những em trung bình, bài tập dễ thì yêu cầu học sinh yếu kém. Từ đó tất cả các học sinh trong lớp đều thực hành được dẫn đến các em rất hứng thú trong học tập. Phân công học sinh khá giỏi giúp đỡ học sinh yếu kém ở trường có sự giám sát, kiểm tra của giáo viên. Tổ chức cho các em thành lập nhóm học tập, thi đua giữa các nhóm học tập mà trong đó có những học sinh yếu. Động viên, tuyên dương kịp thời học sinh có tiến bộ. 1.5.Khích lệ: Không tiếc lời khen ngợi các em nhất là những học sinh yếu kém, phải tìm ra ưu điểm thật sự của các em để khen, kẻo các em bị tổng thương vì nghĩ thầy cô giễu cợt mình. Ví dụ khen các em viết đẹp, trình bày rõ ràng, khen cẩn thận, có tiến bộ... Đừng để khi nào các em làm đúng hết thì mới khen, mà hễ các em làm đúng được phần nào là khen phần đó. Phần sai thì nói cố gắng lần sau sẽ tốt hơn, hay gần đúng rồi, tốt lắm ... Chúng ta không nên chê bai các em, hay dùng những lời lẻ làm cho các em buồn dẫn đến chán học rồi nghỉ luôn. Sự khích lệ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong công tác phụ đạo học sinh yếu (chiếm khoảng 20% cho sự thành công), từ đó tạo cho các em sự tự tin vào bản thân và hứng thú trong học tập. 1.6.Nội dung cần phụ đạo: -Ôn lại kiến thức mà học sinh còn yếu. -Củng cố lại kiến thức mới qua các bài tập. -Cho học sinh làm thêm bài tập ngữ pháp để nắm vững cấu trúc câu. -Luyện cho học sinh các kỹ năng thông qua các dạng bài tập. -Thường xuyên kiểm tra từ vựng thông qua thực hành. *Khi học sinh có tiến bộ, đó là động cơ và niềm tin cho các em hứng thú, tích cực học tập. Sự nhiệt tình, khéo léo của giáo viên sẽ giúp học sinh học tập tốt hơn và dần dần tiếp thu bài dễ dàng hơn. Học sinh sẽ yêu thích và hiểu được tầm quan trọng của bộ môn mà các em đang học. 2.Đối với giáo viên chủ nhiệm: -Thường xuyên phối hợp với giáo viên bộ môn trong công tác giáo dục học sinh. -Đẩy mạnh công tác quản lý lớp, xây dựng nề nếp của lớp vào đầu năm học, thực hiện nghiêm túc việc sinh hoạt 15 phút đầu giờ hàng ngày. -Tổ chức ôn tập đầu giờ, kiểm tra công việc chuẩn bị bài mới và học bài cũ của các em. Tổ chức ôn bài lẫn nhau, hay sửa bài tập đầu buổi học. -Phân công cán bộ lớp, cán sự bộ môn hướng dẫn giúp đỡ các em yếu kém ôn bài. -Hướng dẫn học sinh xây dựng góc học tập ở nhà ngăn nắp, khoa học, có hiệu quả. -Tổ chức phát động các phong trào như: “Giúp bạn vượt khó”, “Đôi bạn học tập”, .... để giúp đỡ học sinh khó khăn, yếu kém của lớp yên tâm học tập và tiến bộ. 3.Đối với phụ huynh học sinh: Đây là bước tiếp theo cũng không kém phần quan trọng mà giáo viên cần phải làm, giáo viên phải thường xuyên liên hệ với các phụ huynh có con em học yếu kém để trao đổi và yêu cầu phụ huynh thực hiện các việc như sau: -Theo dõi và kiểm tra bài vở của con em mình. -Giúp đỡ con em mình trong quá trình học tập ở nhà, phải có thời gian biểu cho các em. -Đôn đốc, động viên con em đi học chuyên cần. -Thường xuyên giữ mối liên hệ với giáo viên để nắm được tình hình học tập của con em mình, từ đó giáo viên cùng trao đổi với phụ huynh để tìm biện pháp tốt nhất cho con em mình học tập có hiệu quả. V.Hiệu quả áp dụng: Qua hơn một học kì thực hiện những giải pháp thiết thực nêu trên, chất lượng học sinh ở lớp tôi được phân công giảng dạy đạt được kết quả như sau: 1.Kết quả học tập môn Tiếng Anh: Năm học: 2011 - 2012 STT Lớp 9A2 Chất lượng học sinh TSHS Giỏi Khá TB Yếu Kém 1 KSĐN 30/ 20 4 13,3 % 8 26,7 % 11 36,7 % 5 16,7 % 2 6,7 % 2 GHKI 30/ 20 6 20,0 % 11 36,7 % 10 33,3 % 2 6,7 % 1 3,3 % 3 HKI 30/20 7 23,3 % 13 43,3% 9 30,0 1 3,3 % 0 % 4 GHKII 30/20 21 70,0 % 6 20,0 % 3 10,0 % 0 % 0 % 2.Thái độ, ý thức học tập: *Các em học sinh luôn thể hiện tính tự giác, tích cực, chủ động trong học tập, kết quả và chất lượng học tập bộ môn có nhiều tiến bộ rõ rệt. *Vào giờ học các em luôn hăng hái tham gia xây dựng bài một cách nhiệt tình, năng nỗ với thái độ vui vẻ và tự tin. *Biểu hiện đáng tuyên dương nhất là những em học yếu kém ở HKI đã phấn đấu và đạt được kết quả trung bình ở giữa HKII. Hy vọng rằng với sự nổ lực rèn luyện trong thời gian tới các em sẽ đạt được kết quả tốt hơn trong học tập ở HKII, và điều quan trọng hơn nữa là các em tự trang bị cho mình kiến thức để có đủ khả năng và sự tự tin khi tham gia vào kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 ở cuối năm học này đạt kết quả khả quan như tất cả mọi người mong đợi. C.Kết luận: I.Ý nghĩa của đề tài đối với công tác: Tóm lại nếu giáo viên tạo được môi trường học tập thân thiện, mối quan hệ gần gũi, không khí học tập vui vẻ, thoải mái, nhẹ nhàng cùng với phương pháp học tập tích cực, tổ chức có hiệu quả công tác phụ đạo học sinh yếu kém, mức độ đề kiểm tra phù hợp với trình độ của học sinh, đánh giá công bằng, khách quan thì hy vọng rằng có thể cải thiện được kết quả học tập của các em học sinh yếu và xa hơn nữa là tạo ra được sự hứng thú trong quá trình học tập và rèn luyện. Giúp cho các em học sinh thay đổi trong nhận thức, chuyển từ yêu cầu học tập sang nhu cầu học tập vì nguồn gốc của tính tích cực, sự hứng thú là nhu cầu. Khi các em có nhu cầu học tập thì các em sẽ tự tìm kiếm tri thức hay nói cách khác là khả năng tự học. Đây chính là điều mà tất cả giáo viên đều mong đợi trong vai trò là người chịu trách nhiệm dẫn dắt, đưa các em đến bến bờ tri thức. Vì thế tôi mong đề tài này sẽ được quý đồng nghiệp chia sẽ, đóng góp, bổ sung nhằm tìm ra được phương pháp hay nhất, hiệu quả nhất trong công tác bồi dưỡng học sinh yếu kém đạt hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Và để duy trì bền vững một trường đạt chuẩn quốc gia thì chất lượng giáo dục phải luôn được đặt lên làm một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu. II.Khả năng áp dụng: -Thực hiện cho tất cả các đối tượng học sinh yếu kém ở các khối lớp trong nhà trường. -Có thể phổ biến áp dụng ở một số trường khác trong huyện. III.Bài học kinh nghiệm: Là người giáo viên dưới mái nhà trường trong mắt chúng ta là những em học sinh đáng thương và đáng được quan tâm giúp đỡ. Một lời của thầy cô có thể so sánh bằng hàng trăm nhát đòn của cha mẹ. Cha mẹ có công sinh thành dưỡng dục nhưng thầy cô là người cha mẹ, người mẹ tinh thần có trách nhiệm dạy dỗ cho các em nên người. Chúng ta phải thật sự có “Tâm” với nghề và chỉ có những giáo viên thật sự có tâm huyết thì mới tìm ra những giải pháp thiết thực nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh yếu kém giúp các em học sinh xác định được mục đích, động cơ học tập, giúp bản thân học sinh phải hiểu và nhận thức được tầm quan trọng của việc học tập là nhu cầu hết sức cần thiết cho tương lai, phải hết sức phấn đấu vượt khó vươn lên trong học tập. Mỗi giáo viên chúng ta luôn luôn hướng các em theo khẩu hiệu: “Học vì ngày mai lập nghiệp”. Học để hiểu biết, học để trao dồi tri thức và học để trở thành những người công dân có ích cho xã hội. Tìm biện pháp “Nâng cao chất lượng học tập của học sinh yếu kém” là vấn đề mỗi giáo viên đều quan tâm. Các giáo viên Tiếng Anh nói riêng và tất cả giáo viên bộ môn trong nhà trường nói chung đã áp dụng toàn bộ hoặc một số biện pháp tương tự như trên. Nhưng muốn thành công trong việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh ở bộ môn mình đồng đều, giáo viên đóng vai trò quyết định. Vì thực hiện các biện pháp trên mất rất nhiều thời gian, và kéo dài suốt cả năm học, đòi hỏi người giáo viên phải có tính kiên trì, nhẫn nại với quyết tâm “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Làm được như thế chắc chắn chúng ta sẽ được đền bù xứng đáng từ những “Sản phẩm yếu kém” đầu năm của chúng ta đến cuối năm trở nên khá hoàn hảo, đây không chỉ là niềm vui riêng của giáo viên mà còn là niềm vui chung của gia đình, nhà trường và của toàn xã hội. Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã rút ra được trong quá trình giảng dạy và phụ đạo học sinh yếu kém. Đây cũng là một phần không thể thiếu góp phần giúp cho tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ trong quá trình dạy học và nâng cao chất lượng việc rèn luyện học sinh yếu kém. IV.Đề xuất, kiến nghị: 1.Đối với Ban giám hiệu nhà trường: -Tăng cường công tác quản lí và theo dõi quá trình học tập của từng học sinh, kiểm tra tỉ lệ chuyên cần của học sinh, kiểm tra chất lượng giảng dạy của giáo viên dạy phụ đạo. -Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm, phối hợp đồng bộ, kịp thời với các giáo viên bộ môn, với các tổ chức đoàn thể và sự hỗ trợ giáo dục của cha mẹ học sinh. -Tổ chức thông báo kết quả và tình hình học tập cụ thể của từng học sinh theo định kỳ cho gia đình. 2.Đối với hội đồng bộ môn huyện: -Tổ chức các buổi hội thảo, chuyên đề thường xuyên hơn để giáo viên nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư phạm và học hỏi thêm về kinh nghiệm nâng cao chất lượng giáo dục của các trường bạn. -Mở các lớp bồi dưỡng thường xuyên để bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho giáo viên môn Tiếng Anh. Nhận xét của Hội đồng khoa học THT, ngày 9 tháng 03 năm 2012 Người viết Nguyễn Hoàng Quân
Tài liệu đính kèm: