Giáo án Ngữ văn 8: Khi con tu hú - Tố Hữu

Giáo án Ngữ văn 8: Khi con tu hú - Tố Hữu

KHI CON TU HÚ – TỐ HỮU

I. Giới thiệu tác giả

* Chú thích (SGK - tr. 21)

* Bổ sung

- Con đường thơ của Tố Hữu bắt đầu cùng lúc với con đường cách mạng.

- Thơ của ông được soi sáng bởi lý tưởng cách mạng.

- Trong thơ Tố Hữu ta bắt gặp một tâm hồn nồng nhiệt của tuổi trẻ gặp lý tưởng cách mạng.

- Khi bị tù đày: Thơ của ông vượt qua song sắt để cổ vũ cuộc đấu tranh,

 - Bài thơ: Khi con tu hú được sáng tác tháng 7/1939 tại nhà lao Thừa Phủ

 II. Đọc hiểu văn bản:

 * Nhan đề bài thơ

- Tên bài thơ: Chỉ là một vế phụ của một câu trọn ý.

VD: Khi con tu hú gọi bầy là khi mùa hè đến, người tù cách mạng càng cảm thấy ngột ngạt trong phòng gian chật chội, càng thèm khát cháy bỏng cuộc sống tự do tưng bừng ở bên ngoài.

 

doc 3 trang Người đăng haiha30 Lượt xem 1521Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án Ngữ văn 8: Khi con tu hú - Tố Hữu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHI CON TU HÚ – TỐ HỮU
I. Giới thiệu tác giả 
* Chú thích (SGK - tr. 21)
* Bổ sung 
- Con đường thơ của Tố Hữu bắt đầu cùng lúc với con đường cách mạng.
- Thơ của ông được soi sáng bởi lý tưởng cách mạng.
- Trong thơ Tố Hữu ta bắt gặp một tâm hồn nồng nhiệt của tuổi trẻ gặp lý tưởng cách mạng.
- Khi bị tù đày: Thơ của ông vượt qua song sắt để cổ vũ cuộc đấu tranh,
 - Bài thơ: Khi con tu hú được sáng tác tháng 7/1939 tại nhà lao Thừa Phủ
 II. Đọc hiểu văn bản:
	* Nhan đề bài thơ 
- Tên bài thơ: Chỉ là một vế phụ của một câu trọn ý.
VD: Khi con tu hú gọi bầy là khi mùa hè đến, người tù cách mạng càng cảm thấy ngột ngạt trong phòng gian chật chội, càng thèm khát cháy bỏng cuộc sống tự do tưng bừng ở bên ngoài.
Tên bài thơ đã gợi mạch cảm xúc của bài thơ.
Tiếng chim tu hú được gợi từ đầu bài thơ đó là tín hiệu của mùa hè rực rỡ, của sự sống tưng bừng, của trời cao lồng lộng tự do. Tiếng chim đã tác động mạnh đến tâm hồn người tù.
	* Thể thơ:
	- Bài thơ được viết theo thể lục bát.
 - Tiếng 6 của câu 6 hiệp vần với tiếng 6 của câu 8.
1. Sáu câu thơ đầu: Cảnh vào hè
+ Sáu câu thơ lục bát đã mở ra một thế giới rộn ràng tràn trề nhựa sống.
- Hình ảnh: nắng đào lúa chín trái cây, hạt bắp, tiếng ve, bầu trời cao rộng, cánh diều chao lượn.
Mùa hè rộn rã âm thanh rực rỡ sắc màu, ngọt ngào hương vụ, bầu trời thoáng đạt tự do. Tiếng chim tu hú đã thức dậy tất cả.
Đây là cảnh trong tâm tưởng người chiến sĩ trẻ trong cảnh thân thù. Từ tiếng chim tu hú tác giả đã huy động mọi giác quan để đón nhận mọi tín hiệu của sự sống bên ngoài.
Đây là sự cảm nhận mãnh liệt tinh tế của mọt tâm hồn trẻ trung yêu đời nhưng đang mất tự do và khao khát tự do.
2. Bốn câu cuối: Tâm trạng của người tù
+ Tâm trạng đau khổ, uất ức ngột ngạt được nhà thơ biểu hiện trực tiếp.
- Cách ngắt nhịp bất thường 6/2 (câu 8), 3/3 (câu 9).
- Cách dùng từ ngữ mạnh.. đạp tan phòng, ngột, chết uất...
- Từ ngữ cảm thán: ôi, thôi, làm sao...
Tạo cảm giác ngột ngạt cao độ, niềm khao khát mãnh liệt muốn thoát khỏi tù ngục, trở về cuộc sống tự do.
Tiếng chim tu hú mở đầu đưa tác giả vào cảnh mùa hè với bầu trời tự do. Tiếng chim tu hú kết thúc bài thơ cách kết cấu đầu cuối tương ứng tạo hiệu quả nghệ thuật thể hiện niềm khát khao tự do cháy bỏng của người chiến sĩ trong cảnh tù đầy.
IV. Tổng kết:
Bài thơ lục bát giản dị, giọng điệu tha thiết đã thể hiện sâu sắc lòng yêu cuộc sống và niềm khao khát tự do cháy bỏng của nhà thơ.
tham khảo
Cũng là một tiếng chim, nhưng tiếng gọi bầy của con chim tu hú gợi lên sự tưởng tượng phong phú về bức tranh thiên nhiên rộng lớn và tinh tế. Từ thế giới vĩ mô đến thế giới vi mô, từ cánh đồng, bầu trời, khu vườn, vạt sân đến hạt bắp, trái cây. Còn nhớ những tiếng chim độc đáo trong thơ:
- Một tiếng chim kêu sáng cả rừng (Khương Hữu Dụng).
- Tiếng chim tha nắng rải đồng vàng thơm (Định Hải).
- Tiếng chim nghe thánh thót
 Văng vẳng khắp cánh đồng (Trần Hữu Thung)...
ở bài thơ này, chim tu hú gọi bầy thức dậy trong tâm tưởng nhà thơ bao nhiêu hình ảnh, âm thanh, màu sắc, hương vị của mùa hè. Sắc màu thật là rực rỡ và lộng lẫy:
- Cánh đồng lúa chín ửng vàng
- Vườn cây râm mát xanh
- Nắng đỏ tươi
- Ngô vàng
- Trời xanh thăm thẳm
Những âm thanh thật là náo nức, rạo rực. Tiếng chim tu hú lảnh lót trên nền nhạc rộn rã của những tiếng ve ngân. Trên cao xanh điệp vào đó là tiếng sáo diều réo rắt. Cùng với sự đầy ắp âm thanh, màu sắc là hương thơm. Hương của đồng lúa chín, hương của những trái cây ngọt ngào từ những khu vườn, hương từ những vạt ngô đang rây vàng hạt mẩy. Cảnh vật rất sống động, chúng như đang phát triển, đang cựa quậy một cách hết sức tự nhiên, mạnh mẽ. Tiếng ve "dậy", nắng đào "đầy", trời xanh bát ngát như căng ra - "càng rộng càng cao". Đến cả những cánh diều vô tri vô giác cũng biến thành vật sống - con diều sáo - bay lượn thoải mái tự do trong bầu trời khoáng đãng.
Tuy nhiên, đặc sắc của bức tranh không phải chỉ là chất liệu, mặc dù chúng làm nên vẻ đẹp bề bộn, rậm rạp của Huế lúc vào hè. Đặc sắc là bức tranh này được vẽ bằng sự tưởng tượng, vẽ trong tưởng tượng. Nó là mùa hè, nhưng mùa hè "dậy" lên qua tiếng chim lọt vào buồng giam, mùa hè "nghe" thấy "cảm" thấy trong tiếng chim tu hú và xa xa là tiếng ve, tiếng sáo diều.
Thiên nhiên tự do phóng khoáng bên ngoài được dành cho nhiều dòng thơ. Trong khi đó cuộc sống mùa hè của người bị giam chỉ được viết trong một dòng thơ ngắn ngủi vỏn vẹn sáu tiếng:
Ngột làm sao, chết uất thôi
Sự tương phản không chỉ là cảnh vật mà thậm chí đến ngay cả cấu tứ và diễn đạt. Không cần nói nhiều về tình trạng đối lập bên trong và bên ngoài phòng giam, mà vẫn cứ ngồn ngộn sự đối lập. Bởi vì rằng cảnh vật tự nó gợi lên sự đối lập. Bên ngoài là thiên nhiên phóng khoáng, dịu mát, thơm hương tràn đầy sức sống. Thế mà, cũng là mùa hè, nhưng trong phòng giam là sự ngột ngạt - và chết uất. Thế giới tù tội và thế giới tự do vốn là đối lập, nhưng nếu như không đặt chúng cạnh nhau, không so sánh bởi cùng một thước đo thì sự đối lập và tương phản ấy sẽ không có được tính chất gay gắt mãnh liệt. Tiếng chim tu hú cứ như khoan vào trong phòng giam để cho thế giới bên ngoài tràn vào ào ạt. Mà như vậy càng khiến cho sự ngột ngạt càng trở nên ngột ngạt, sự khao khát càng thêm khao khát, sự bức bối càng thêm bức bối. Đến nỗi người trong tù phải kêu lên, phải khao khát hành động đập phá, tháo cũi, sổ lồng.
Người tù muốn đập tan phòng để ôm lấy mùa hè tự do.
Người tù cảm thấy không thể sống nổi cuộc sống tù tội.
Trong khi đó tiếng chim tu hú vẫn cứ giục giã, giục giã...
Ban đầu tiếng chim tu hú chỉ là tiếng chim hiền lành gọi bầy, nhưng đến đây nó thấm đầy tâm trạng cho nên thành tiếng kêu. Nó Kêu ở ngoài trời, nó Kêu ở nơi tự do, nó Kêu ở trong lòng người. Nó khắc khoải, giục giã, thiêu đốt.
Bài thơ kết thúc ở tiếng chim cứ kêu cứ kêu... Người tù có đạp tan phòng giam, có bị chết vì ngột, vì uất ở trong đó hay không bài thơ không nói rõ. Nhưng người đọc thì rõ điều này: Người thanh niên 19 tuổi "gân đang săn và thớ thịt căng da" khao khát tự do, căm thù sự giam cầm trói buộc. Cuộc đấu tranh của anh cực kì quyết liệt:
- Hoặc là phá tan tù ngục - giành tự do
- Hoặc sẽ bị nhà tù tiêu diệt - chết ngột, chết uất.
Chỉ có một cách lựa chọn duy nhất giữa hai khả năng đó. Con chim tu hú cứ kêu hay đó là tiếng đời, tiếng gọi do như thúc giục, như khích lệ đập tan cái xà lim nhốt người, và tiến tới đập tan cái chế độ dã man đang cầm tù cả một dân tộc, một đất nước.

Tài liệu đính kèm:

  • docKhi con tu hu(1).doc