Đề tài Thơ và phương pháp giảng dạy thơ trữ tình

Đề tài Thơ và phương pháp giảng dạy thơ trữ tình

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài.

 - Sau gần sáu năm cải cách môn Ngữ Văn ở Trung học cơ sở dư luận chung đánh giá có nhiều chuyển biến rõ nét về phương pháp dạy học. Điều chính là trong cuộc cải cách này đã được những định hướng và giải pháp mới phù hợp với xu thế dạy học tiến bộ của khu vực và thế giới. Xong khi triển khai lại gặp nhiều điều “ bất cập do sự non kém nghiệp vụ gây ra. Chúng tôi nhận thấy: Một số giờ học văn nhiều giáo viên chưa hiểu sâu sắc bản chất của đổi mới phương pháp; chưa quan tâm đến mọi đối tượng đặc biệt là đối tượng học sinh yếu. Phương pháp giảng dạy chưa đổi mới, khó đổi mới. Chưa kết hợp hài hoà các phương pháp, còn hiện tượng “ Thầy nói trò ghi, hoặc còn mắc phải những sáo mòn mơí ngay khi xây dựng khẳng định phương pháp mới đã khiến giờ học trở nên nhạt nhẽo vô hồn. Từ đó ảnh hưởng rất nhiều đến việc cảm thụ văn của học sinh.

- Qua dự giờ ở một số khối lớp, chúng tôi thấy số đông học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu khám phá bài học, nhiều em học sinh còn thờ ơ, lãnh đạm với tác phẩm văn chương, nhất là thơ, thường ít hiểu, ít yêu thơ. Các em học các bài thơ trong sách giáo khoa cũng bình thường như các bài học khác, ít biết về thơ hiện đại, ít em có một quyển sổ đẹp để chăm chút viết vào đấy những bài thơ hay mà mình yêu thích. Đối với nhiều em, thế giới thơ còn là một thế giới xa lạ. Nếu có ai hỏi các em về những bài thơ hay mà các em thích, thường khi hiểu biết của các em quanh quẩn cũng không ngoài các bài thơ đã học trong sách giáo khoa và

 sở dĩ các em thấy hay vì có in trong sách giáo khoa và thầy giáo bảo vậy. Cá biệt không phải không có em “sợ” thơ, bởi vì có những bài thơ cổ từ ngữ, điển cố nặng nề, âm điệu trúc trắc, ý nghĩa khó hiểu gây cho các em nhiều mệt nhọc mà lời giảng của người thầy nhiều lúc cũng chưa làm cho các em hiểu rõ và thấy hay thêm được chút nào. Từ đó học sinh mất hứng thú khi học văn và kéo theo chất lượng học văn ngày càng sa sút.

 

doc 29 trang Người đăng haiha30 Lượt xem 2123Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Thơ và phương pháp giảng dạy thơ trữ tình", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kl;
mjgjhhj
A. Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài.
	- Sau gần sáu năm cải cách môn Ngữ Văn ở Trung học cơ sở dư luận chung đánh giá có nhiều chuyển biến rõ nét về phương pháp dạy học. Điều chính là trong cuộc cải cách này đã được những định hướng và giải pháp mới phù hợp với xu thế dạy học tiến bộ của khu vực và thế giới. Xong khi triển khai lại gặp nhiều điều “ bất cập ’’ do sự non kém nghiệp vụ gây ra. Chúng tôi nhận thấy: Một số giờ học văn nhiều giáo viên chưa hiểu sâu sắc bản chất của đổi mới phương pháp; chưa quan tâm đến mọi đối tượng đặc biệt là đối tượng học sinh yếu. Phương pháp giảng dạy chưa đổi mới, khó đổi mới. Chưa kết hợp hài hoà các phương pháp, còn hiện tượng “ Thầy nói trò ghi’’, hoặc còn mắc phải những sáo mòn mơí ngay khi xây dựng khẳng định phương pháp mới đã khiến giờ học trở nên nhạt nhẽo vô hồn. Từ đó ảnh hưởng rất nhiều đến việc cảm thụ văn của học sinh. 
- Qua dự giờ ở một số khối lớp, chúng tôi thấy số đông học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu khám phá bài học, nhiều em học sinh còn thờ ơ, lãnh đạm với tác phẩm văn chương, nhất là thơ, thường ít hiểu, ít yêu thơ. Các em học các bài thơ trong sách giáo khoa cũng bình thường như các bài học khác, ít biết về thơ hiện đại, ít em có một quyển sổ đẹp để chăm chút viết vào đấy những bài thơ hay mà mình yêu thích. Đối với nhiều em, thế giới thơ còn là một thế giới xa lạ. Nếu có ai hỏi các em về những bài thơ hay mà các em thích, thường khi hiểu biết của các em quanh quẩn cũng không ngoài các bài thơ đã học trong sách giáo khoa và
 sở dĩ các em thấy hay vì có in trong sách giáo khoa và thầy giáo bảo vậy. Cá biệt không phải không có em “sợ” thơ, bởi vì có những bài thơ cổ từ ngữ, điển cố nặng nề, âm điệu trúc trắc, ý nghĩa khó hiểu gây cho các em nhiều mệt nhọc mà lời giảng của người thầy nhiều lúc cũng chưa làm cho các em hiểu rõ và thấy hay thêm được chút nào. Từ đó học sinh mất hứng thú khi học văn và kéo theo chất lượng học văn ngày càng sa sút.
- Bên cạnh đó thế kỉ 21 Hội nhập toàn cầu, đời sống kinh tế xã hội phát triển, những môn học thời thượng (Toán, Lý, Hoá, Tin học, Ngoại ngữ) quan trọng hơn bao giờ hết thì văn chương không có tính năng ứng dụng, tương lai người học không được đảm bảo.Một thực tại mà giáo viên nào cũng nhận thấy : Sách tham khảo, sách hướng dẫn để học tốt, sách chuẩn kiến thức, những bài văn mẫu quá nhiều, vô hình dung đã làm cho học sinh bỏ rơi sách giáo khoa, học sinh tỏ ra biết đầy đủ nội dung tác phẩm văn chương được học nhưng chưa một lần đọc bài văn, bài thơ trong sách giáo khoa, thầy có kiểm tra phát vấn thì các loại sách tham khảo nghĩ hộ nói hộ tất cả và khi giáo viên ra đề kiểm tra coi nghiêm túc thì tất thảy đã phơi bày ra. Có rất nhiều lỗi học sinh phạm phải khiến người thầy đau lòng.
 	VD : Ngữ văn 9 bài kiểm tra khảo sát chất lượng đầu năm
Phần tự luận có câu: Em hãy viết bài văn giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi, hoàn cảnh ra đời, nội dung và nghệ thuật của đoạn trích “Nước Đại Việt ta” 
HS1: Nguyễn Trãi sinh ra trong một gia đình có tri thức nhưng do tham gia khởi nghĩa nên ông đã bị giết hại một cách rất oan uổng vào năm 1442.
HS2: Nguyễn Trãi là một vị quan thanh liêm, giữ chức vụ cao ở triều đình. Ông sinh năm 1418 và mất năm 1378. Nội dung của bài “Bình Ngô đại cáo” như một bản tuyên ngôn độc lập của nước ta có nội dung rất vững chãi, ý nghĩa hùng hậu.
HS3: Nguyễn Trãi là con trai Nguyễn Phi Khanh quê ở xã Chi Ngoại thuộc huyện Chí Linh – Thường Tín – Hà Tây. Đoạn trích “Nước Đại Việt ta” được trích trong “Bình Ngô đại cáo” được ông viết trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên.
HS4: Nguyễn Trãi sinh năm 1382, ông là một vị quan giỏi nhất trong triều đình. Ông sáng tác trong hoàn cảnh nhân dân khổ cực, đất nước bị bọn thực dân tiến đánh. Ông đã kể lại hoàn cảnh loạn lạc của nhân dân lúc đó, đất nước thì bị chia cắt, nhân dân đang cố gắng đánh lại quân Minh lần thứ nhất và đã giết chết tên Toa Đô ở sông Bạch Đằng. Ông đã sử dụng một số nghệ thuật để làm tăng sức mạnh mẽ của “Đại Việt ta” là liệt kê, kể, tả
2. Mục đích nghiên cứu.
 	Từ nhận thức trên tổ khoa học xã hội dưới sự chỉ đạo của phòng chuyên môn tập trung nghiên cứu làm thế nào để cho các em hiểu thơ yêu thơ và say mê với thơ để từ đó hình thành thói quen ham học và ham đọc văn. Muốn vậy giáo viên phải tìm hiểu thơ, đặc trưng của thơ nghĩa là tìm hiểu phương pháp giảng dạy thơ trữ tình. 
Trong khuôn khổ cho phép của một đề tài nghiệp vụ sư phạm tôi đã quyết định chon đề tài “Thơ và phương pháp giảng dạy thơ trữ tình” với mong muốn có thể ứng dụng hiệu quả hơn phương pháp giảng dạy thơ trữ tình để dạy tốt các bài thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn THCS.
Trước hết tìm hiểu thực trạng việc dạy và học Ngữ văn nói chung và thơ trữ tình nói riêng ở trường phổ thông hiện nay. Từ đó đưa ra những đề xuất và ứng dụng phương pháp giảng dạy thơ trữ tình. Quá trình thực hiện đề tài này nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ sư phạm của bản thân, bước đầu làm quen với việc nghiên cứu khoa học làm cơ sở cho việc học tập và nghiên cứu sau này.
3. Thời gian địa điểm.
- Sau hai năm nghiên cứu đề tài thơ và phương pháp giảng dạy thơ trữ tình năm học 2007-2008 chúng tôi thực hiện chuyên đề tại trường Trung học cơ sở Xuân Sơn.
4. Đóng góp mới về mặt lí luận, thực tiễn.
	- Tiến hành nghiên cứu đề tài này, tôi không có tham vọng nhiều mà chỉ mong học sinh của tôi có niềm đam mê học Văn nói chung và có kĩ năng cảm thụ thơ nói riêng để từ đó chất lượng học văn ngày càng được nâng lên.
	- Căn cứ vào kinh nghiệm và hiểu biết còn ít ỏi của mình, tôi cố gắng tìm hiểu phương pháp giảng dạy thơ trữ tình đó là chú ý đến đặc trưng của thơ. Đặc biệt về mặt loại thể, thơ trữ tình giảng theo trình tự trữ tình, khai thác hình tương tâm tư của tác giả hay của nhân vật trữ tình. Hình tượng thơ hình thành trong một cấu tạo ngôn ngữ đặc biệt khác với ngôn ngữ bình thường. Cấu tạo trong ngôn ngữ đó làm cho hình tượng thơ không chỉ có hình mà còn có nhạc. Trong khi giảng, người giáo viên phải làm cho học sinh vừa hình dung được hình ảnh bài thơ gợi lên vừa cảm thụ được nhạc điệu của bài thơ mang đến. Nắm được đặc trưng đó, chúng ta sẽ có một phương hướng chung để đi vào nắm được quy luật chung, tìm ra phương pháp cơ bản nhất của việc giảng dạy thơ. Phương pháp cơ bản đó sẽ góp phần hướng dẫn chúng ta trong khi đi tìm những phương pháp cụ thể để giảng các bài thơ muôn hình muôn vẻ. 
	- Để làm được vấn đề trên, đòi hỏi người thầy dạy văn phải có trình độ học vấn và tay nghề cao cần năng động và sáng tạo rất nhiều. Hay nói cách khác người thầy phải có tài năng và tâm huyết. 
B. Phần nội dung.
Chương I: Tổng quan 
Dạy đọc hiểu thơ trữ tình đòi hỏi một cách tiếp cận riêng khác với dạy các văn bản tự sự, miêu tả hay nghị luận. Cho nên trong chương II, nội dung vấn đề nghiên cứu đề tài tôi đã đề cập đến những mục sau:
I. Thơ và đặc trưng của thơ.
II. Nghệ thuật thơ.
III. Dạy thơ.
Trong chương III, phương pháp nghiên cứu và kết quả nghiên cứu có 2 phần.
I.Phương pháp nghiên cứu gồm 5 phương pháp.
II. Kết quả nghiên cứu: ứng dụng vào bài dạy cụ thể: Văn bản “ Tiếng gà trưa” Của tác giả Xuân Quỳnh. 
Chương II: Nội dung vấn đề nghiên cứu.
I. Thơ và đặc trưng của thơ. 
1. Thơ là gì?
- Nhà thơ đời Đường : Bạch Cư Dị có nhận xét:
“Rung động lòng người không có gì trước hơn tình cảm, không có gì sớm hơn ngôn ngữ, không có gì tha thiết hơn âm thanh, sâu sắc hơn ý nghĩa thơ : tình là gốc lời là ngọn, âm thanh là hoa ý nghĩa là quả”.
- Nhà phê bình Hoài Thanh:
“Từ bao giờ đến bây giờ, từ Hô me đến Kinh thi, đến ca dao Việt Nam. Thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế”
- Nhà thơ Sóng Hồng:
Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Thơ là một viên ngọc long lanh dưới ánh sáng mặt trời. Thơ là thơ, đồng thời cũng là hoạ là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng. Nhưng thơ có khả năng bao quát sâu rộng không gian và thời gian mà nhiều nghệ thuật khác không có. Cho nên hơn các nghệ thuật, thơ là nghệ thuật kỳ diệu của trí tưởng tượng.”
- Nhà thơ Tố Hữu :
“Thơ là cái nhuỵ của cuộc sống. Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy.”
“Thơ ca làm cho con người ta đi từ chân trời một người đến chân trời nhiều người.”
Vâng! Thơ không chỉ là tiếng nói tâm hồn của các cá nhân thi sĩ mà còn là điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu. Thơ nảy sinh do nhu cầu giãi bày của nghệ sĩ; khao khát bày tỏ những tâm sự thầm kín của mình nhưng mặt khác những tiếng lòng hết sức riêng tư ấy luôn khao khát được đồng vọng, đi tìm sự đồng điệu.
 2. Đặc trưng của thơ.
 	Đặc trưng của loại thơ trữ tình là sự bộc lộ trực tiếp tư tưởng, cảm xúc, nhiệt tình, tâm tư, những trạng thái mạnh mẽ, xao động, phong phú của tâm hồn và trí tuệ con người. Tất cả những trạng thái muôn hình, muôn vẻ mà tác phẩm trữ tình diễn tả cũng đều bắt nguồn từ hiện thực, do cuộc sống kích thích, thúc đẩy, khêu gợi và đều có mang dấu vết, hình ảnh của cuộc sống, của hiện thực khách quan. Có điều là mọi hình ảnh cuộc sống đều bộc lộ qua cảm quan và ngôn ngữ cá nhân của tác giả hoặc của nhân vật mà tác giả nhân danh để phát biểu, của cái ngôi thứ nhất mà trong lí luận văn học gọi là “Nhân vật trữ tình” hay “cái tôi trữ tình”. Do đó, trong tác phẩm trữ tình không phải chỉ có cảm xúc, tư tưởng thuần tuý, trần trụi mà cũng có cảnh, có người, có việc, nhưng điều chủ yếu ở đây là cái trạng thái tâm tư dào dạt cảm xúc hay chất chứa suy nghĩ trước những cảnh, những người, những việc đó. Trong tác phẩm tự sự trung tâm là hình tượng – tính cách (của nhân vật) còn trong tác phẩm trữ tình trung tâm lại là hình tượng, tâm tư (của tác giả hay của nhân vật trữ tình).
Ví dụ văn bản “Sau phút chia ly” trích “ Chinh phụ ngâm” thì chủ yếu là một tác phẩm trữ tình. ở đây không có câu chuyện nào cả, hoặc đúng hơn là có rất ít chuyện. Từ đầu đến cuối khúc ngâm là sự diễn biến của hàng loạt trạng thái tâm tư, tình cảm khác nhau của người chinh phụ trong thời gian vắng chồng. Hiện thực về chiến tranh phong kiến cũng như thái độ phản kháng tiêu cực đối với cuộc chiến tranh đó chủ yếu được bộc lộ qua tâm trạng của nhân vật trữ tình: người chinh phụ. Hình ảnh chiến trường âm u, ảm đạm của một cuộc chiến tranh phong kiến vô nghĩa cũng như tình cảnh cửa nhà quạnh vắng, cô đơn của người vợ trẻ đợi chồng được dựng lên không phải như một “cái gì ở bên ngoài, tách biệt” mà ở trong tâm trạng thương nhớ triền miên của người chinh phụ.
 II. Nghệ thuật thơ.
 1. Tiếng Việt giàu âm thanh, nhạc điệu. Hệ thống vần điệu và thanh điệu là những yếu tố cơ bản tạo nên tính nhạc của tiếng Việt nói chung và ngôn từ văn học nói riêng, nhất là thơ. Một trong những tác dụng của vần là tạo nên â ... kỳ diệu bằng 3 hình ảnh:
+ Xao động nắng trưa: tiếng gà tác động đến thiên nhiên, nắng trưa vốn gay gắt, rát bỏng, hanh hao chợt trở lên xao động lung linh, xao xuyến sống động.
+ Bàn chân đỡ mỏi: Tiếng gà tác động đến cơ thể làm cho con người khoẻ khoắn tỉnh táo hơn. bàn chân rệu đi vì “Hành quân xa” như có vị thuốc tiên trở lên đỡ mỏi, hồi sức trở lại.
+ Gọi về tuổi thơ: Tiếng gà trưa tác động đến kỉ niệm chạm vào miền kí ức, dắt lối con người ngược dòng thời gian trở về với tuổi thơ. 
- Liên tưởng đến tiếng gà trưa của thời thơ ấu.
- Trong bài thơ tiếng gà trưa xuất hiện 4 lần, tất cả ở vị trí đầu khổ thơ. Mỗi lần đều có một giá trị mở ra một nội dung liên tưởng mới .
- Lần 1:hình ảnh những con gà mái với những ổ trứng hồng.
“ổ rơm hồng những trứng
Này con gà mái mơ
Khắp mình hoa đốm trắng
Này con gà mái vàng
Lông óng như màu nắng”
- Vẻ đẹp tươi sáng, đầm ấm, bình dị, hiền hoà.
- Câu thơ sóng đôi từng cặp 
- Từ “này”được nhắc đến hai lần có tác dụng liệt kê.
- Nghệ thuật đảo “khắp mình” lên trước “hoa đốm trắng”.
- Nghệ thuật so sánh lông óng như màu nắng .
- Việc pha chế (hồng, trắng, vàng cùng màu ổ rơm, màu nắng, đã tạo ra bức tranh kí ức có một vẻ đẹp lộng lẫy.
Bình
Nghệ thuật phối sắc của Xuân Quỳnh cùng với cấu trúc song hành đối xứng, điệp từ, so sánh, Xuân Quỳnh như chạm khắc vào “Tiếng gà trưa” một bức tranh gà sống động đẹp đẽ, không phải là bức tranh gà Đông Hồ ngày xưa mà là bức tranh ngập đầy màu sắc: màu vàng của rơm, màu hồng của trứng, màu trắng đốm hoa của gà mái mơ, màu vàng óng của gà mái vàng. Tất cả như giao thoa như quện vào nhau thật rực rỡ làm nên bức hoạ. Bức hoạ lung linh sắc màu tươi sáng trong veo sống động ấy đích thị là sắc màu tuổi thơ.
- Gam màu tươi sáng mát dịu.
- Lời bà mắng: “Gà đẻ mà mày nhìn/ rồi sau này lang mặt”
- Cách bà chăm chút từng quả trứng: “Tay bà khum soi trứng/ dành từng qủa chắt chiu/ Cho con gà mái ấp”
- Nỗi lo của bà: “ Cứ hằng năm hằng năm / Khi gió mùa đông tới/ Bà lo đàn gà toi/ mong trời đừng sương muối”.
- Và niềm vui của cháu: “ôi cái quần chéo go/ ống rộng dài quét đất/ cái áo cánh trúc bâu/ đi nghe qua sột soạt”.
- Đây là chi tiết rất thực đời thường: lời mắng yêu vì bà muốn cháu mình sau này được xinh đẹp, hạnh phúc.
- Chi tiết này thể hiện chân thực tình cảm giản dị mà trong tình yêu bà dành cho cháu
- Cháu nhớ kỷ niệm này vì cháu nhận được tình yêu ấy của bà.
- Câu thơ bình dị lấy ngôn ngữ thường nhật, dễ đi vào lòng người và đó là phong cách thơ của Xuân Quỳnh.
- Chi tiết đặc tả động tác soi trứng rất cẩn trọng của người bà.
- Cụm từ “hằng năm” lặp lại hai lần về một thời gian khó.
- Nhịp thơ thay đổi ngắt nhịp linh hoạt (3/2; 1/4; 2/3) làm cho nhịp thơ chậm.
- Từ ôi ! Biểu cảm trực tiếp.
- Người bà thôn quê chịu thương chụi khó chắt chiu từng niềm vui nhỏ trong cuộc sống còn nhiều vất vả lo toan.
- Là nỗi lo vì niềm vui của cháu.
- Là nỗi lo chân thật của người bà nơi quê trong cuộc sống còn nhiều khó khăn.
- Nỗi lo ấy biểu hiện tình yêu thương giản dị, thầm lắng của người bà .
-Nghèo nhưng hiền thảo
- Hết lòng vì con cháu
- Chịu đựng, nhẫn nại, hi sinh.
- Tuổi thơ gắn với niềm vui lúc nhỏ, trong lành ở gia đình và làng quê.
- Vui vì có quần áo mới, nhưng vui hơn vì tình cảm ấm áp bà dành cho.
- áo quần bà sắm cho là vật bình thường nhưng không phải ai cũng có được nếu không được bà yêu thương.
- Niềm vui ấy tạo ra từ bao chắt chiu cần kiệm lo toan của bà.
Do vậy niềm vui thật thiêng liêng, không dễ gì quên được.
Tục ngữ có câu “già được bát canh, trẻ được manh áo mới” cảm xúc của những đứa trẻ được quần áo mới còn giữ nguyên vẻ tươi mới trong hồi ức tuổi thơ. Dường như nhân vật trữ tình không còn là chủ thể của nỗi nhớ mà đã nhập hẳnn vào lỗi nhớ hoá thân thành đứa trẻ hồn nhiên như ngày nào xúng xính trong bộ quần áo mới đang tung tăng theo bà đi chúc tết hay chơi cùng chúng bạn mỗi độ xuân về.
- Niềm vui tuổi thơ nghèo cơ cực ở nông thôn Việt Nam thật đơn sơ, giản dị và cảm động biết bao. Giờ đây sống mũi còn cay vì những hình ảnh, kỷ niệm ấy gắn bó với tình yêu thương che chở của bà.
- Tình bà cháu của tác giả Bằng Việt trong bài “Bếp Lửa’.
Lần thứ 4 gợi suy tư về hạnh phúc:
+ Mang bao nhiêu hạnh phúc 
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng những trứng
+ Gợi suy tư về cuộc chiến đấu hôm nay:
 Cháu chiến đấu ... vì tình yêu Tổ quốc, vì tiếng gà, vì bà... ổ trứng hồng tuổi thơ.
- Tiếng gà trưa và những ổ trứng hồng là hình ảnh của cuộc sống chân thành, bình yên, no ấm.
- Tiếng gà trưa thức dậy bao tình cảm bà cháu, gia đình, quê hương.
- Đó là âm thanh bình dị của làng quê đem lại những niềm yêu thương cho con người.
- Mơ những điều tốt lành, những điều vui và hạnh phúc.
- Khẳng định những niền vui chân thật và chắc chắn của con người về mục đích chiến đấu hết sức cao cả (Vì lòng yêu Tổ quốc), nhưng cũng hết sức bình thường (Tiếng gà cục tác. ổ trứng hồng tuổi thơ).
- ổ trứng và tiếng gà là những điều chân thật, thân thương, quí giá là biểu tượng hạnh phúc ở mỗi miền quê.
Vì thế cuộc chiến đấu hôm nay còn có thêm ý nghĩa bảo vệ những điều chân thật và quí giá đó.
- Bài thơ kết thúc rõ ràng giản dị: từ tiếng gà cục tác giữa buổi hành quân mà suy nghĩ liên tưởng nhớ lại bồi hồi thương yêu bà nội quê nghèo lại đem cả tiếng gà vào cuộc chiến đấu hôm nay. Tình yêu quê hương đất nước không có gì xa lạ nó bắt nguồn từ tình cảm gia đình, từ tình bà cháu, từ tiếng gà trưa.
- Tiếng gà trưa cổ vũ tinh thần tiếp thêm sức mạnh cho người cháu. Họ chiến đấu vì Tổ quốc - cái lớn lao vĩ đại, vì tiếng gà cục tác - cái nhỏ bé bình dị. Tình yêu Tổ quốc bắt nguồn từ những gì gần gũi bình thường nhất.
- Thì ra điều lớn lao nằm trong những điều bình dị. Nếu không có cái nhỏ bé bình dị ấy sẽ không có cái lớn lao vĩ đại kia. Tình yêu Tổ quốc làm lên từ tình yêu những gì gần gũi nhất.
- Nhà văn hào Nga Ê-ren-bua: “Lòng yêu nước”.
- Ba câu thơ hay nhất, đẹp nhất. Tất cả đều nói về niềm vui hạnh phúc.
- Hình tượng thơ đẹp, biểu cảm mang nhiều ý nghĩa khái quát. Câu thơ đầu là hình tượng bất ngờ của thế giới hiện thực, câu sau là hình tượng nghệ thuật lung linh của thế giới tâm tưởng mãi lưu giữ trong kí ức.
- Màu hồng là điểm sáng là hồn của bài thơ. Màu hồng trong trẻo là màu của nỗi nhỡ, màu của ước mơ, màu của niềm tin tất thắng.
Bình:
Màu hồng hiện lên trong thơ như nhãn tự, một điểm nhấn đặc sắc, chưa từng có nhà thơ nào diễn tả được cái màu hồng rất riêng, rất đẹp như Xuân Quỳnh.
Màu hồng ở đây không phải là hồng của hoa hay ánh sáng mặt trời, màu hồng của trứng nhạt thôi, nhưng cách đảo của Xuân Quỳnh (“hồng như trứng” chứ không phải “Những quả trứng hồng”) đã làm cho màu hồng như có sự lan toả, như thể phát quang. Cái màu hồng phớt non tơ bé bỏng dường như vẫn còn nguyên hơi ấm của những quả trứng gà mới chào đời.
Màu hồng thôn quê gần gũi ấy đã trở thành màu hồng của giấc ngủ trẻ thơ. Người ta vẫn hay nói tới giấc mơ hồng, những giấc mơ hồng sắc trứng thì chưa từng có. Chỉ trong thơ Xuân Quỳnh ta mới bắt gặp một giấc ngủ nhuốm màu hồng lung linh nơn nớt tròn đầy trong veo của những qủa trứng gà như thế. Giấc mơ của đứa trẻ thôn quê giản dị trong lành tinh khiết biết bao.
Khép lại trang thơ cũng bằng cái màu hồng đầy sức ám ảnh ấy. Màu hồng hiện lên như biểu tượng hoà bình. “Cháu chiến đấu hôm nay” vì tình yêu bà, yêu đất nước, song đặc biệt nhất là vì cái màu hồng yêu dấu kia - cái màu hồng đã phủ lên cả tuổi thơ nghèo khó mà ấm áp nghĩa tình chốn quê làng.
Có thể nói, sức gợi , sức lay động của màu hồng sắc trứng thật mạnh mẽ, nó đã chạm vào mạch nguồn kỉ niệm tuổi thơ. Màu hồng trong veo đầy ám ảnh đó sẽ mãi mãi vương vấn trong tâm hồn những ai đến với “Tiếng gà trưa” bằng trái tim.
- Bài thơ thể hiện những kỉ niệm của người cháu có tâm hồn trong sáng có tình cảm trân trọng, yêu quí đối với bà, đồng thời cũng thể hiện một ý chí mãnh liệt của người chiễn sĩ chiến đấu vì Tổ quốc, quê hương.
III/ Tổng kết:
1) Nội dung:
- Tình yêu loài vật, tình yêu bà.
- Bao trùm là tình yêu gia đình, quê hương, đất nước.
2) Nghệ thuật:
Bài thơ chủ yếu được trình bày bằng thể thơ 5 tiếng nhưng có những chỗ biến đổi linh hoạt xen một số câu ba tiếng.
Số câu thơ và cách gieo vần của mỗi khổ cũng có những biến đổi.
Phép tu từ điệp ngữ những chi tiết chân thực đời thường giản dị, tính chân thực cao đẹp của cảm xúc trong bài thơ trữ tình.
3) Ghi nhớ:
IV/ Luyện tập:
Bài tập trắc nghiệm: 
- Dòng nào dưới đây diễn đạt chính xác nội dung: Vì sao bài thơ được tác giả lấy tên là “Tiềng gà trưa”?
A/ Tiếng gà trưa là đầu mối cảm xúc
B/ Tiếng gà trưa là cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ
C/ Tiếng gà trưa đi vào kỉ niệm trở thành yếu tố khắc sâu thêm tình yêu quê hương đất nước 
D/ Cả 3 ý trên 
Đáp án D
- Tiếng gà trưa vừa gợi đến những kỉ niệm gian khó của thời thơ ấu, nhưng trong bối cảnh ra đời tác phẩm nó có thể được xem là hình ảnh ẩn dụ cho mơ ước về một cuộc sống thanh bình yên ả.
- Tiếng gà trưa - một âm thanh đồng vọng - của gia đình, xóm làng trở thành hành trang của người lính trẻ. “Tiếng gà trưa” hay bài ca cuộc sống rất đẹp mà cũng rất thơ. Xin cảm ơn Xuân Quỳnh.
Hướng dẫn về nhà.
- Học thuộc lòng bài thơ, ghi nhớ, nắm được nội dung, phân tích.
Viết bài văn cảm nghĩ về tình bà cháu.
- Soạn bài “Một thứ quà của lúa non: Cốm”
- Gợi ý: 
+ Đọc - chú thích.
+ Soạn tác giả tác phẩm.
+ Nghiên cứu và trả lời câu hỏi SGK.
	D.Rút kinh nghiệm.
	Kết quả: Qua giờ dạy, học sinh tích cực suy nghĩ chủ động tham gia các hoạt động học tập để khám phá lĩnh hội kiến thức. Đặc biệt các em đã mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến của mình, bước đầu tập bình thơ, say mê đọc thơ. Giờ học đạt hiệu quả cao.	
III. Phần kết luận, kiến nghị.
Thật ra, trong việc dạy thơ nói riêng cũng như dạy Văn học nói chung, điều quyết định là tình yêu và hiểu biết, như trên chúng ta đã nói: Mỗi bài thơ phải giảng cũng như một bài toán chưa giải. toàn bộ năng lực của người thầy phải được huy động để giải bài toán ấy. Phương pháp cơ bản chúng tôi nêu ở trên chỉ là cái hướng chung để đi tìm lời giải, còn chính lời giải bao giờ cũng do thầy cô tìm lấy. Trong một vấn đề tế nhị và phức tạp như vấn đề thơ và giảng dạy thơ trữ tình chúng tôi mong những quan niệm và kinh nghiệm còn ít ỏi trình bày ở đây, sẽ là những gợi ý bạn bè đối với tập thể người thầy đang thiết tha suy nghĩ, tìm tòi nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy thơ trong nhà trường để góp phần nhiều nhất vào sự nghiệp giáo dục.
Xin chân thành cảm ơn!
IV/ Tài liệu tham khảo phụ lục.
	Tài liệu giáo trình có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
	Thơ và lời bình.
	Vấn đề giảng dạy tác phẩm theo loại thể.
	Tạp chí văn học tuổi trẻ.
	Xuân Sơn , ngày 9 tháng 11 năm 2007
 Người viết
 Nguyễn Thị Hẹn
	V/ Nhận xét của HĐKH cấp trường, Phòng Giáo dục và Đào tạo.

Tài liệu đính kèm:

  • docChuyen de Tho va phuong phap day tho(1).doc