CHUYÊN ĐỀ : ĐOẠN VĂN
A. KHÁI NIỆM : Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, được qui ước bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng đến chỗ chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành.
1. Về hình thức : bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng đến chỗ chấm xuống dòng ( qua hàng).
2. Về nội dung: Biểu đạt một ý tương đối trọn vẹn.
3. Về cấu tạo :
- Thường do nhiều câu tạo thành. Tuy nhiên có những ĐV chỉ có một câu thậm chí là một từ.
- Cách trình bày : Mở đoạn – thân đoạn – kết đoạn
CHUYÊN ĐỀ : ĐOẠN VĂN ********** A. KHÁI NIỆM : Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, được qui ước bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng đến chỗ chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành. 1. Về hình thức : bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng đến chỗ chấm xuống dòng ( qua hàng). 2. Về nội dung: Biểu đạt một ý tương đối trọn vẹn. 3. Về cấu tạo : - Thường do nhiều câu tạo thành. Tuy nhiên có những ĐV chỉ có một câu thậm chí là một từ. - Cách trình bày : Mở đoạn – thân đoạn – kết đoạn B. TỪ NGỮ CHỦ ĐỀ VÀ CÂU CHỦ ĐỀ CỦA ĐOẠN VĂN I. Từ ngữ chủ đề : 1. Ví dụ : *VD1 : Tôi đưa mắt thèm thuồng nhìn theo cánh chim. Một kỉ niệm cũ đi bẫy chim giữa cánh đồng lúa hay bên bờ sông Viêm sống lại đầy rẫy trong trí tôi. Nhưng tiếng phấn của thầy tôi gạch mạnh trên bảng đen đã đưa tôi về cảnh thật. Từ “tôi” ( đại từ) nhắc lại nhiều lần để duy trì đối tượng được nói đến. *VD2: Trần Đăng Khoa rất biết yêu thương. Em thương bác đẩy xe bò “mồ hôi ướt lưng, căng sợi dây thừng” chở vôi cát về làng và mời bác về nhà mình. Em thương thầy giáo một hôm trời mưa đường trơn bị ngã, cho nên dân làng bèn đắp lại đường. -> TĐK - em - em...-> duy trì đối tượng nói đến là TĐK. * VD3 : Lão Hạc -> làm tiêu đề 2. Kết luận : Là các từ ngữ được dùng làm đề mục hoặc những từ ngữ được lặp đi lặp lại nhiều lần( thường là các chỉ từ, đại từ, các từ đồng nghĩa) nhằm duy trì đối tượng được biểu đạt trong ĐV. II.Câu chủ đề của đoạn văn : 1.Ví dụ : a. Trần Đăng Khoa rất biết yêu thương. Em thương bác đẩy xe bò “mồ hôi ướt lưng, căng sợi dây thừng” chở vôi cát về làng và mời bác về nhà mình.Em thương thầy giáo một hôm trời mưa đường trơn bị ngã, cho nên dân làng bèn đắp lại đường. b. Các tế bào của lá cây có chứa nhiều lục lạp. Trong các lục lạp này có chứa một chất gọi là diệp lục, tức là chất xanh của lá. Sở dĩ chất diệp lục có màu xanh lục vì nó hút các tia sáng có màu khác, nhất là màu đỏ và màu lam , nhưng không thu nhận màu xanh lục mà lại phản chiếu màu này và do đó mắt ta mới nhìn thấy màu xanh lục. Như vậy, lá cây có màu xanh là do chất diệp lục chứa trong thành phần tế bào. 2. Kết luận: a. Về ý nghĩa: - Câu chủ đề là câu mang nội dung khái quát của toàn đoạn văn. - Câu CĐ có chức năng nêu rõ đề tài , chủ đề mà ĐV biểu đạt. Nó chi phối toàn bộ ND ĐV. Các câu khác trong ĐV phải phụ thuộc nó và làm sáng tỏ cho nó bằng các lí lẽ, dẫn chứng, con số - Câu CĐ giúp người viết thể hiện ND tập trung, thống nhất hơn; giúp người tiếp nhận nắm được nhanh chóng,chính xác ND ĐV. b. Về cấu tạo : - lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính ( CV – VN), thường là câu khẳng định hoặc phủ định. c. Về vị trí : Thường đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn. + Đứng đầu ĐV sẽ có nhiệm vụ giới thiệu, nêu trước chủ đề của ĐV + Đứng cuối ĐV có nhiệm vụ tổng kết, khái quát những ND đã trình bày. Khi đứng cuối đoạn , câu chủ đề có thể kết hợp thêm với những từ ngữ mang ý tổng kết khái quát như : Vì vậy, tóm lại, vì thế, cho nên * Muốn xác định câu chủ đề : + XĐ ND chính mà ĐV biểu đạt + Tìm xem ND ấy được thể hiện trong câu văn nào. *Lưu ý : Có những ĐV không có câu chủ đề ( song hành, móc xích). Chủ đề của ĐVkhông được bộc lộ trực tiếp trong một câu văn nào mà toát lên từ ND của tất cả các câu trong đoạn. VD : Mưa đã ngớt. Trời rạng dần. Mấy con chim chào mào từ hốc cây nào đó bay ra hót râm ran. Mưa tạnh. Phía đông, một mảng trời trong vắt . Mặt trời ló ra, chói lọi trên trên những vòm lá bưởi lấp lánh. ( Tô Hoài) C. CÁCH TRÌNH BÀY NỘI DUNG TRONG ĐOẠN VĂN I. Diễn dịch 1. Ví dụ * Sau trận mưa rào, mọi vật đều sáng và tươi. Những đoá hoa râm bụt thêm màu đỏ chói. Bầu trời xanh bóng như vừa được gột rửa. Mấy đám mây bông trôi nhởn nhơ, sáng rực lên trong ánh mặt trời. * Phong cảnh miền Tây Bắc thật là hùng vĩ. Núi rừng trùng điệp nhấp nhô một màu xanh thẳm. Có những ngọn núi cao chót vót mây cuốn quanh sườn. Có những cao nguyên chạy dài mênh mông. Có những thung lũng hình lòng chảo lọt vào giữa những khoảng núi đồi. 2. Kết luận - Là cách trình bày đi từ ý chung, khái quát đến các ý chi tiết, cụ thể làm sáng tỏ cho ý chung ý khái quát đó. Câu chủ đề đứng ở đầu đoạn văn , các câu sau triển khai làm rõ ý câu chủ đề. - ĐV trình bày cách này cấu tạo gồm 2 phần : Mở đoạn – phát triển đoạn. II. Quy nạp 1 Ví dụ : * Những ngôi nhà cao tầng đang được hoàn thiện khẩn trương. Những tấm biển sặc sỡ trên đường phố quảng cáo cho những sản phẩm của các công ti danh tiếng. Những văn phòng đại diện đứng chen chân ở các đường phố trung tâm. Những khách du lịch nước ngoài đứng ngơ ngác ở các ngã ba, ngã tưĐó là những hình ảnh về một Hà nội năng động, trẻ trung trong thời đổi mới. * Cây lan, cây huệ, cây hồng nói chuyện bằng hương, bằng hoa. Cây mơ, cây cảI nói chuyện bằng lá. Cây bầu, cây bí nói bằng quả.Cây khoai, cây dong nói bằng củ, bằng rễ. Bao nhiêu thứ hoa, bấy nhiêu tiếng nói. 2. Kết luận - Là cách trình bày đi từ ý cụ thể, chi tiết đến ý chung, ý khái quát. Câu chủ đề đứng ở cuối ĐV. Trước câu CĐ có thể dùng những từ ngữ chuyển tiếp mang ý TKKQ : tóm lại, vì vậy, cho nên - Cấu tạo ĐV gồm 2 phần : Phát triển đoạn – Kết đoạn. III. Song hành 1.Ví dụ * Mưa đã ngớt. Trời rạng dần. Mấy con chim chào mào từ hốc cây nào đó bay ra hót râm ran. Mưa tạnh. Phía đông, một mảng trời trong vắt . Mặt trời ló ra, chói lọi trên trên những vòm lá bưởi lấp lánh. ( Tô Hoài) * Nam Cao ( 1915 – 1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại Hoàng, phủ Lí Nhân( Nay là xã Hoà Hậu, huyện Lí Nhân) tỉnh Hà Nam. Ông là một nhà văn hiện thực xuất sắc với những truyện ngắn, truyện dài chân thực viết về người nông dân nghèo đói bị vùi dậpNam Cao đựơc nhà nước truy tặng giải thưởng HCM về VHNT năm 1996. 2. Kết luận - Là cách trình bày các câu ngang nhau ( Các câu có quan hệ bình đẳng, không câu nào phụ thuộc hay bao hàm câu nào). Các câu trong ĐV bổ sung và phối hợp với nhau để biểu đạt ý chung , ý khái quát của toàn đoạn. - ĐV song hành không có câu CĐ. CĐ của ĐV được toát ra từ ND ý nghĩa của tất cả các câu trong đoạn. - Cấu tạo : chỉ có phần phát triển đoạn. IV.Móc xích 1.Ví dụ * Người tiêu dùng mua hàng hoá để thoả mãn những nhu cầu trong sinh hoạt hàng ngày. Hàng hoá phục vụ đời sống sinh hoạt hàng ngày được gọi là hàng tiêu dùng. Hàng tiêu dùng phân biệt với hàng tư bản. Hàng tư bản là hàng hoá thường được các nhà sản xuất mua đẻ sản xuất ra những hàng hoá khác. * Đọc thơ Nguyễn Trãi, nhiều người đọc khó mà biết có đúng là thơ NT không ? Đúng là thơ NT thì cũng không phải dễ mà hiểu đúng. Lại có khi chữ hiểu đúng mà toàn bài không hiểu. Không hiểu vì không biết chắc chắn bài thơ đã được viết ra vào lúc nào trong cuộc đời nhiều chìm nổi của NT. * Các tác phẩm VHVN có giá trị đều có tính nhân văn . “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một tác phẩm VH có giá trị. Bởi vậy, “Truyện Kiều” là một tác phẩm có tính nhân văn, không ai có thể phủ nhận được. 2. Kết luận - Là cách trình bày các câu chứa các ý có quan hệ móc xích với nhau bằng cách câu sau lặp lại ý của câu trước để giảI thích, bổ sung cho câu trước. - ĐV móc xích có thể có câu CĐ nhưng cũng có khi không có. - VD3 còn gọi là móc xích lập luận ba đoạn ( Tam đoạn luận) V. Tổng - Phân - Hợp 1. Ví dụ * Trong hoàn cảnh "trăm dâu đổ đầu tằm, ta càng thấy chị Dậu thật là một người phụ nữ đảm đang tháo vát. Một mình chị phải giải quyết mọi khó khăn đột xuất của gia đình, phải đương đầu với những thế lực tàn bạo : quan lại, cường hào, địa chủ và tay sai của chúng. Chị có khóc lóc, có kêu trời nhưng chị không nhắm mắt khoanh tay mà tích cực tìm cách cứu được chồng ra khỏi cơn hoạn nạn. Hình ảnh chị Dậu hiện lên vững chắc như một chỗ dựa chắc chắn của cả gia đình. ( Nguyễn Đăng Mạnh) 2. Kết luận - Là cách trình bày đoạn văn ngoài câu chủ đề đặt ở đầu đoạn ra còn có câu kết mang nội dung khái quát , tổng kết và nhấn mạnh chủ đề ĐV. - ĐV có cấu tạo 3 phần : + Mở đoạn : Câu CĐ nêu ý chính, khái quát + Phát triển đoạn : Các câu chứa ý phụ triển khai làm rõ ý chính + kết đoạn : Câu kết khẳng định, tổng hợp lại vấn đề. * Muốn xác định cách trình bày nội dung đoạn văn : - Xác định ND ĐV. - Tìm câu chủ đề. - Xác định vị trí câu chủ đề và quan hệ của nó với những câu khác trong đoạn. - Kết luận về cách trình bày. D. TÁCH ĐOẠN VĂN : I Khái niệm 1. Ví dụ : Có buổi sớm nắng mờ, biển bốc hơi nước, không nom thấy núi xa, chỉ một màu trắng đục. Không có thuyền, khoongcos sóng, không có mây, không có sắc biếc của da trời. Một buổi chiều lạnh, nắng tắt sớm. Những núi xa lam nhạt pha màu trắng sữa. Không có gió, mà sóng vẫn đổ đều đặn, rì rầm.Nước biển dâng đầy, quánh đặc một màu bạc trắng, lấm tấm như bột phấn trên da quả nhót. 2. Nhận xét : - Hai ĐV cùng nói về cảnh biển.Đoạn 1 nói về "buổi sớm nắng mờ", đoạn 2 nói về "buổi chiều lạnh". - Thời điểm khác nhau, cảnh sắc biển khác nhau. Việc tách 2 ĐV làm cho phần văn bản rõ ràng, cân đối... 3. Kết luận : Tách một VB hay một phần của VB ra thành những ĐV là xếp một câu hay một số câu vào một ĐV, phân biệt nó với phần VB trước nó và sau nó, nhằm những mục đích diễn đạt nhất định như tạo sự ró ràng, cân đối, thu hút chú ý... II. Những căn cứ để tách đoạn văn : 1. Căn cứ vào vai trò, nhiệm vụ của đoạn văn trong cấu tạo chung của VB. - Đoạn văn làm phần mở bài : Giới thiệu đề tài... - Đoạn văn hay nhiều ĐV làm phần thân bài : Triển khai cụ thể ND chủ đề. - Đoạn văn làm phần kết bài : tổng hợp, đánh giá chủ đề... 2. Căn cứ vào những biến đổi trong quan hệ nội dung giữa các đoạn văn: a. Quan hệ giữa các vật, việc, hiện tượng khác nhau: mỗi vật, việc... tách thành một đoạn văn. VD : Nắng như cầm lửa mà đổ xuống trên rừng núi Chư Lây. Dưới suối, nước đi trốn gần hết, dân làng phải dỡ từng hòn đá ra mới tìm được nước.Rẫy muốn cháy. Cây lúa cứ thấp lè tè, hột cứng ít, hột lép nhiều. Thêm cái đói muối.Hũ muối nhà nào cũng ăn đến hạt cuối cùng rồi. Hết muối phải đổ nước ngâm cái hũ một đêm rồi dốc ra lấy cái nước mằn mặn đó ăn với cơm.Bây giờ cái hũ cũng hết mặn. b. Quan hệ giữa các điểm, hướng không gian khác nhau: mỗi điểm, hướng không gian... tách thành một đoạn văn. VD : Từ tây sang đông, những dải núi trẻ chạy tiếp nhau trông tựa một vành đai.Những dải núi trẻ này tiếp tục những dải núi trẻ của châu Âu, chạy ngang qua châu á tới bán đảo Trung - Ấn rồi tiến ra biển thành quần đảo In - đô - nê - xi - a. Quá lên phía bắc châu Á có nhiều cao nguyên cổ.Những cao nguyên này bị bào mòn từ lâu đời, nhưng về sau hiện tượng tạo sơn lại làm xuất hiện những dải núi trẻ. c.Quan hệ giữa các thời điểm, thời hạn khác nhau : mỗi thời điểm, thời hạn... tách thành một đoạn văn. VD : Có buổi sớm nắng mờ, biển bốc hơi nước, không ... tại của bé Hồng. + Tâm trạng trông ngóng, khát khao được gặp mẹ. + Từ hình ảnh so sánh để nhấn mạnh nỗi hổ thẹn, tủi cực và tuyệt vọng của bé Hồng nếu đó không phải là mẹ. Câu 2 : ( 3 điểm ) Làm rõ các ý sau : 1- Hình thức : Đảm bảo đoạn văn. 1- Nội dung : Cảm nhận cái hay về nội dung và nghệ thuật qua hai hình ảnh : + Hình ảnh con người sau những ngày lao động trên biển khơi với làn da nhuộm nắng, nhuộm gió và vị mặn mòi của sóng, của dong rêu, của nước ở đại dương đã thấm sâu vào từng đường gân thớ thịt của người dân chài nên họ trở về mang nguyên vẹn vị nồng tỏa của biển khơi vẻ đẹp lớn lao, phi thường . + Hình ảnh con thuyền trở nên có hồn, một tâm hồn rất tinh tế, nên nó đang lắng nghe chất muối thấm dần vào da thịt nó. + Nghệ thuật : Tả thực, sáng tạo độc đáo, nhân hóa, ẩn dụ. Câu 3 : ( 5 điểm ) Đảm bảo các yêu cầu sau : 1, Xác định yêu cầu : - Thể loại : phát biểu cảm nghĩ về nhân vật kết hợp với lập luận chứng minh - Nội dung : Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của lão Hạc. 2, Hình thức : ( 1 điểm ) Đảm bảo yêu cầu sau: - Bố cục : 3 phần mở bài, thân bài, kết bài - Hành văn mạch lạc, rõ ràng, không sai lỗi chính tả. 3, Nội dung : ( 4 điểm ) Đảm bảo các phần sau: A/ Phần mở bài : ( 0,5 điểm ) Giới thiệu tác giả, tác phẩm Khái quát phẩm chất ( vẻ đẹp tâm hồn ) của nhân vật. B/ Thân bài : ( 3 điểm ) Đảm bảo 3 ý sau : * Ý 1 : Lão Hạc người nông dân nghèo, lương thiện mà bất hạnh. - Tài sản duy nhất của lão : Có ba sào vườn, một túp lều, con chó vàng - Vợ chết, cảnh gà trống nuôi con - Tuổi già sống quạnh hưu, ốm đau, hoa màu mất sạch do bão, làng mất nghề vé sợi, lão không có việc làm, gía gạo đắt, bán cậu vàng, tìm cho mình cảnh giải thoát. * Ý 2 : Lão Hạc con người giàu lòng nhân hậu. - Đối với con trai. - Đối với con vật đặc biệt là cậu vàng. * Ý 3 : Lão Hạc, con người trong sạch, giàu lòng tự trọng. - Nghèo nhưng vẫn giữ cho mình trong sạch không theo gót Binh Tư để có ăn. - Từ chối sự giúp đỡ của ông giáo. - Bất đắc dĩ phải bán chó lão dằn vặt lương tâm. - Gửi tiền làm ma khỏi liên lụy đến xóm làng. * Nghệ thuật : Miêu tả tâm lý nhân vật qua ngoại hình và nội tâm, cách kể chuyện xen lẫn triết lý sâu sắc. C/ Kết bài : ( 0,5 điểm ) - Khẳng định lại cảm nghĩ. - Đánh giá sự thành công của tác phẩm. MỘT SỐ BÀI BÌNH HAY ÔNG ĐỒ (Vũ Đình Liên) Sáng tác của Vũ Đình Liên là sự hoà quyện của hai nguồn cảm hứng: “Lòng thương người và tình hoài cổ” (Hoài Thanh).Tình hoài cổ khiến thơ ông có cái bâng khuâng tiếc nuối những truyền thống văn hoa mờ nhạt dần, những bi kịch “biết tìm đâu” “cảnh xưa rực rỡ trăm màu” (Hồn xưa). Còn lòng thương người khiến câu chữ như động cựa bởi nỗi xót xa trước những cảnh “thân tàn ma dại”. “Ông đồ”-một trong những bài thơ nổi tiếng của Vũ Đình Liên chính là sự thăng hoa của hai nguồn cảm hứng này. Mỗi dịp tết đến xuân về, người Việt xưa thường có thói quen xin chữ để gửi gắm những mong ước, khát vọng cho năm mới. Đó là chữ nho, thứ chữ tượng hình giàu ý nghĩa. Học, hiểu được chữ nho đã khó, viết được cho thật đẹp lại càng khó hơn. Người có hoa tay, viết chữ mà tưởng như vẽ bức tranh. Đầu thế kỉ XX, trên các phố phường Hà Nội còn lưu giữa lại hình ảnh những cụ đồ nho cặm cụi đậm tô từng nét chữ “tròn, vuông tươi tắn” (chữ dùng của Nguyễn Tuân) trên giấy điều để bán cho dân Hà Thành đón Tết. Hình ảnh ấy đã in sâu vào tâm trí Vũ Đình Liên và hiện hình thành bức tranh thơ giản dị mà sinh động: Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ Trên phố đông người qua Cấu trúc “mỗi...lại” cho ta thấy sự lặp đi lặp lại đã trở thành nếp, thành quy luật quen thuộc. Hoa đào từ lâu đa xtrơe thành sứ giả báo tin xuân. Bởi vậy nói “hoa đào nở” cũng là nhắc ta cái thời khắc chuyển giao thiêng liêng giữa năm cũ và năm mới đang đến gần. Cứ khi hoa đào nở là lại thấy ông đồ già xuất hiện cùng mực tàu, giấy đỏ bên phố nhộn nhịp người đi lại sắm tết.Lời thơ từ tốn mà chứa bao yêu thương. Dẫu chỉ chiếm một góc nhỏ thôi “trên phố” nhưng trong bức tranh thơ này, ông đò lại trở thành tâm điểm. điềm đạm và lặng lẽ, ông đồ hoà nhập vào sự náo nức, rộn ràng của cuộc đời bằng chính những cái quý giá nhất mà ông có. đoạn thơ hai mươi chữ giới thiệu được trọn vẹn không gian, thời gian, nhân vật, tạo tiền đề cho câu chuyện tiếp tục ở những khổ thơ sau: Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay. từ phố đông, không gian được thu hẹp lại quanh chỗ ông đò ngồi viết chữ.Câu thơ ấm ran sự sống bởi từ chỉ số lượng có tính chât phiếm định “bao nhiêu” và tính từ “tấm tắc”biểu đạt sự thán phục, ngợi cn, trân trọng. Ngươì xưa quan niệm chữ nho là thứ chữ thánh hiền. Học chữ ấy không phải đê kiếm sống mà mục đích cao nhất là để làm người, để có thể phò vua, trợ nước, giúp đời. Đầu thế kỉ XX, tình hình đất nước Việt Nam có sự biến động sâu sắc trên mọi lĩnh vực.Tình trạng “Âu học chưa vin được ngọn ngành mà Hán học đã đứt cả cội rễ” rồi khoa thi cuối cùng của triều đình phong kiến đã làm tiêu tan bao giấc mộng vinh quy bái tổ của các đệ tử của Khổng sân Trình. Để tìm kế sinh nhai, họ chỉ còn một cách duy nhất là đi bán chữ như hoàn cảnh của ông đồ trong bài thơ. Dẫu việc đánh đổi chữ thánh hiền để lấy miếng cơm manh áo chỉ là việc cùng bất đắc dĩ, chẳng phải vui sướng, danh giá gì nhưng cái tấm tắc ngợi khen của người đời cũng an ủi được phần nào nỗi niềm của những kẻ sinh bất phùng thời.Họ súm sít thuê ông viết chữ, trầm trồ trước cái tài hoa của ông cũng có nghĩa là còn biết trân trọng tài năng và cái đẹp.Hai câu tiếp theo, nhà thơ miêu tả cận cảnh, đặc tả nét bút tài hoa của ông đồ: Hoa tay thảo những nét Như phượng mua rống bay Câu thơ gợi ta nhớ đến một hình ảnh tương tự mà Đoàn Văn Cừ ghi lại được trong phiên chợ tết: Một thầy khoá ò lưng trên cánh phản Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân Người đọc tưởng như nhìn thấy trước mắt bàn tay có những ngón thon dài nhỏ nhắn của ông đồ uốn lượn cây bút.Theo đà đưa đẩy của bút lông từng nét chữ còn tươi màu mực dần dàn hiện ra mềm mại như “phượng múa rồng bay”.Dường như trongnét chữ ấy ông đồ gửi gắm tất cả cái anh hoa, khát vọng và lí tưởng của mình.Chính linh hồn và tâm huyết của người đã làm con chữ sống dậy.Câu thơ của vũ Đình Liên như cũng muốn bay lên với niềm hân hoan trong thời kì hoàng kim của ông đồ. Nếu cứ tiếp tục nhủ thế thì nhà thơ cũng chẳng có gì để nói. Bất ngờ là đặc trưng cảu cuộc đời. Khổ thơ thứ ba bắt đầu bằng một từ “nhưng” dự báo biết bao thay đổi: Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu? Hai từ “mỗi” điệp lại trong một câu thơ diễn tả bước đi cảu thời gian.Nếu như trước đây : “Mỗi năm hoa đào nở” lại đưa đến cho ông đồ già “bao nhiêu người thuê viết” thì giờ đây “mỗi năm” lại “mỗi vắng”. Nhịp đi của thời gian bao hàm cả sự mài mòn, suy thoái.Thanh “sắc” kết hợp với âm “ắng” khép lại câu thứ nhất như một sự hẫng hụt, chênh chao, như đôi mắt nhìn lên đầy băn khoăn. Để rồi một cách tự nhiên, câu thứ hai phải bật ra thành câu hỏi: Những người thuê ông đồ viết chữ khi xưa nay đâu cả rồi? Câu hỏi buông ra không bao giờ có lời đáp nên cứ chạp chớn, cứ ám ảnh mãi. Người thuê viết không còn, giấy đỏ, mực thơm không được dùng đến nên : Giáy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu Nỗi buồn của con người khiến các vật vô tri vô giác cũng như buồn lây. Mực ssầu tủi đọng lại trong nghiên, giấy điều phôi pha buồn không muốn thắm.Biện pháp nhân hoá góp phần nhấn mạnh tâm trạng của con người. Bởi chẳng phải mực và giấy là những đồ vật gắn bó thân thiết nhất với ông đồ hay sao? Quả là: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đau bao giờ (Nguyễn Du-Truyện Kiều) ` Nếu như trước kia, sự xuất hiện của ông đồ làm không gian và lòng người thêm náo nức.Người ta đón nhận ông bằng tất cả sự trân trọng, kính yêu. Thì giờ đây: Ông đồvẫn ngồi đấy Qua đường không ai hay “Vẫn ngồi đấy” nghĩa là ông vẫn đến theo tín hiệu của hoa đào, vẫn “bày mực tàu giấy đỏ” trên con phố dông người lại qua sắm tết. Ông chờ đợi cái súm sít, tấm tắc của người đời nhưng đáp lại chỉ là sự thờ ơ đến đáng sợ. Nghệ thuật đảo ngũ cùng kết hợp phủ định “không ai” thể hiện rõ nét cái lạnh lùng, thờ ơ, vô cảm đến đáng sợ cảu người đời. Họ cứ đi lại, vui vẻ nói cười mà không có chút ý thức nào về sự tồn tại của ông đồ. ông đã bị họ lẵng quên, bị đẩy ra bên lề cuộc sống. Tình cảnh của ông đồ có khác gì những ông cống, ông nghề trong thơ Tú Xương: Nào có ra gì cái chữ nho Ông nghè ông cống cũng nằm co Đã đau đớn chôn vùi giấc mộng vinh quy, bán dần chữ thánh hiền để kéo dài thêm kiếp sống vậy mà lại bị lãng quên ngay trong lúc đang còn tồn tại. Câu thơ có cái già đắng đót cho bi kịch được nhân tới hai lần của ông đồ. Người đọc bỗng nhói lòng bởi dáng ngồi như hoá đá của ông giữa một trời mưa bui bay bay và những chiếc lá vàng đậu trên trang giấy: Lá vàng rơi trên giấy Ngoài trời mưa bụi bay Ai đó đã nói: Khi con người lui bước thì thiên nhiên chế ngự. Bởi không còn được dùng đến, bởi sự chờ đợi trong yên lặng quá lâu nên lá vàng tha hồ thả mình trên giấy. Ở đây cũng là mưa xuân nhưng nó không “phơi phới bay” như trong thơ thi sĩ lãng mạn Nguyễn Bính sau này. Ông đồ hình như cứ bị chìm lấp, mờ nhạt dần trong màn mưa. Để rồi đến khổ cuối thì bóng hình ông hoàn toàn không còn nữa: Năm nay hoa đào nở Không thấy ông đò xưa Khổ thơ chơi vơi trong cảm giác thiéu vắng, mất mát. Hoa đào vẫn nở, một năm mới lại đến nhưng không còn đượng vẹn nguyên như xưa nữa. Ngôn ngữ thơ có sự chuyển đổi tinh tế từ “ông đò già” đơn thuần chỉ tuổi tác thành “ông đồ xưa”, biến nhân vật vĩnh viễn thành ‘cái di tích tiều tuỵ, đáng thương của một thời tàn” (lời Vũ Đình Liên). Văn minh, Âu hoá kông chấp nhận ông, không cho ông một con đường sống nên ông phải lỗi hẹn với hoa đào. Bài thơ khép lại bằng tiếng “gọi hồn” thao thiết của tác giả: Những người muôn namư cũ hồn ở đau bây giờ? “Những người muôn năm cũ” ấy là ai?Là ông đồ, là những ngơừi thuê ông đồ viết chữ hay là một thời đã đi qua nay chỉ còn “vang bóng”(chữ dùng của Nguyễn Tuân)? Dãu là gọi ai thì câu thơ cũng kết đọng bao tiếc nuối, xót xa cho sự phôi pha, tàn tạ của những nét đẹp trong văn hoá cổ truyền của dân tộc.Nhà thơ gọi để tiêc nuối và gọi để thức tỉnh hãy giữ lấy những giá trị truyền thống ngàn đời mà cha ông đã bao công bồi đắp. Tiếng gọi hồn ấy có giống với tiếng gọi đò u hoài của ông Tú Thành Nam vang trên sông Lấp khi xưa không? Sử dung thể thơ ngũ ngôn và ngôn ngữ gợi cảm, giàu sức tạo hình, Vũ Đình Liên đã khiến cho tác phẩm của mình có dáng dấp một câu chuyện, kể vè cuộc đời một ông đò từ lúc còn được người đời trân trọng, cảm phục tới khi bị lãng quên. Qua hình tượng ông đồ, tác giả đã bày tỏ thật xuất sắc “lòng thương người” và “tình hoài cổ” của mình.
Tài liệu đính kèm: