100 bài thơ hay thế kỷ XX

100 bài thơ hay thế kỷ XX

Những sợi nắng xuyên qua nhà mình

Thành những mũi tên

Thành những viên đạn

Bắn tiếp và anh không gì che chắn

Phải nhận tất cả

Van anh

Hôm qua chưa nhận được một viên đạn

Hôm nay nhận được lỗ thủng

Anh về quê không mang súng

Vũ khí lúc này là hai bàn tay.

Mẹ giục ăn cơm con

Hòa bình trong canh cua, rau mồng tơi, cà

Mùi ổ rơm.

 

doc 237 trang Người đăng tranhiep1403 Lượt xem 1504Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "100 bài thơ hay thế kỷ XX", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI THƠ HAY THẾ KỶ XX
 Được công bố tại Quốc Tử Giám nhân ngày thơ Việt Nam 2007.
 XẾP THEO TÊN TÁC GIẢ THỨ TỰ VẦN CHỮ CÁI (TRỪ BÀI NGUYÊN TIÊU)
 1) Nguyên Tiêu - Hồ Chí Minh.
2) Ngày hòa bình đầu tiên - Phùng Khắc Bắc.
3) Những bóng người trên sân ga - Nguyễn Bính.
4) Tạm biệt Huế - Thu Bồn.
5) Vào chùa - Đồng Đức Bốn.
6) Sư đoàn - Phạm Ngọc Cảnh.
7) Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc - Văn Cao.
8.) Núi Đôi - Vũ Cao.
9) Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm.
10) Tràng Giang - Huy Cận.
11) Dọn về làng - Nông Quốc Chấn.
12) Quê hương - Nguyễn Bá Chung.
13) Say đi em - Vũ Hoàng Chương.
14) Miền Trung - Hoàng Trần Cương.
15) Đường về quê mẹ - Đoàn Văn Cừ.
16) Anh đừng khen em - Lâm Thị Mỹ Dạ.
17) Nguyệt cầm - Xuân Diệu.
18) Cô bộ đội ấy đã đi rồi - Phạm Tiến Duật.
19) Tây tiến - Quang Dũng.
20) Lên Côn Sơn - Khương Hữu Dụng.
21) Đò lèn - Nguyễn Duy.
22) Chiều - Hồ Dzếnh.
23) Thăm mả cũ bên đường - Tản Đà.
24) Cha tôi - Lê Đạt.
25) Mẹ và quả - Nguyễn Khoa Điềm.
26) Núi mường Hung dòng sông Mã - Cầm Giang.
27) Mắt buồn - Bùi Giáng.
28) Hai sắc hoa tigôn - T.T.KH.
29) Đọc thơ Ức Trai - Sóng Hồng.
30) Bài thơ tình ở Hàng Châu - Tế Hanh.
31) Trở về quê nội - Ca Lê Hiến.
32) Đêm mưa - Tô Hoàn.
33) Những đứa trẻ chơi trước cửa đền - Thi Hoàng.
34) Cửu Long giang ta ơi - Nguyên Hồng.
35) Đêm nay Bác không ngủ - Minh Huệ.
36) Nỗi niềm Thị Nở - Quang Huy.
37) Đường khuya trở bước - Đinh Hùng.
38) Người về - Hoàng Hưng.
39) Đồng chí - Chính Hữu.
40) Khi con tu hú - Tố Hữu.
41) Lên Cấm sơn - Thôi Hữu.
42) Lời nói dối nhân ái - Trang Thế Hy.
43) Gánh nước đêm - Á Nam Trần Tuấn Khải.
44) Tỳ bà - Bích Khê.
45) Gửi bác Trần Nhuận Minh - Trần Đăng Khoa.
46) Thu điếu - Nguyễn Khuyến.
47) Bến Mi Lăng - Yến Lan.
48) Tháp Chàm - Văn Lê.
49) Ông đồ - Vũ Đình Liên.
50) Đèo cả - Hữu Loan.
51) Viếng bạn - Hoàng Lộc.
52) Tiếng thu - Lưu Trọng Lư.
53) Nhớ rừng - Thế Lữ.
54) Một vị tướng về hưu - Nguyễn Đức Mậu.
55) Những mùa trăng mong chờ - Lê Thị Mây.
56) Dặn con - Trần Nhuận Minh.
57) Hội Lim - Vũ Đình Minh.
58) Khóc người vợ hiền - Tú Mỡ.
59) Cuộc chia ly màu đỏ - Nguyễn Mỹ.
60) Quê hương - Giang Nam.
61) Thị Màu - Anh Ngọc.
62) Nhớ - Hồng Nguyên.
63) Trời và đất - Phan Thị Thanh Nhàn.
64) Người đàn bà ngồi đan - Ý Nhi.
65) Nhớ máu - Trần Mai Ninh.
66) Mẹ - Nguyễn Ngọc Oánh.
67) Bông và mây - Ngô Văn Phú.
68) Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương - Việt Phương.
69) Đợi - Vũ Quần Phương.
70) Tên làng - Y Phương.
71) Lời mẹ dặn - Phùng Quán.
72) Có khi nào - Bùi Minh Quốc.
73) Tự hát - Xuân Quỳnh.
74) Áo lụa Hà Đông - Nguyên Sa.
75) Bài thơ của một người yêu nước mình - Trần Vàng Sao.
76) Người đẹp - Lò Ngân Sủn.
77) Đồng dao cho người lớn - Nguyễn Trọng Tạo.
78) Tống biệt hành - Thâm Tâm.
79) Dấu chân qua trảng cỏ - Thanh Thảo.
80) Đất nước - Nguyễn Đình Thi.
81) Những người đàn bà gánh nước sông - Nguyễn Quang Thiều.
82) Nghe tiếng cuốc kêu - Hữu Thỉnh.
83) Bao giờ trở lại - Hoàng Trung Thông.
84) Bờ sông vẫn gió - Trúc Thông.
85) Bến đò ngày mưa - Anh Thơ.
86) Thăm lúa - Trần Hữu Thung.
87) Cổ lũy cô thôn - Phạm Thiên Thư.
88) Nói sao cho vợi - Thu Trang.
89) Mưa đêm lều vó - Trần Huyền Trân.
90) Bên mộ cụ Nguyễn Du - Vương Trọng.
91) Nhớ Huế quê tôi - Thanh Tịnh. 
 92) Màu thời gian - Đoàn Phú Tứ. 
 93) Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử. 
 94) Nhớ vợ - Cầm Vĩnh Ui.
95) Em tắm - Bạc Văn Ùi. 
 96) Một ngày ta ngoái lại - Đinh Thị Thu Vân. 
97) Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng - Chế Lan Viên.
98) Bếp lửa - Bằng Việt. 
99) Vườn trong phố - Lưu Quang Vũ.
100) Thương vợ - Trần Tế Xương.
 Hồ Chí Minh
 NGUYÊN TIÊU 
(Nguyên văn bằng chữ Hán)
 Phiên âm: 
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Xuân Thủy đã chuyển lục bát như sau:
Rằm tháng Giêng
 Rằm xuân lồng lộng trăng soi
 Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
 Giữa dòng bàn bạc việc quân
 Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
 Phùng Khắc Bắc
 Ngày hòa bình đầu tiên 
Những sợi nắng xuyên qua nhà mình
Thành những mũi tên
Thành những viên đạn
Bắn tiếp và anh không gì che chắn
Phải nhận tất cả
Van anh
Hôm qua chưa nhận được một viên đạn
Hôm nay nhận được lỗ thủng
Anh về quê không mang súng
Vũ khí lúc này là hai bàn tay...
Mẹ giục ăn cơm con
Hòa bình trong canh cua, rau mồng tơi, cà
Và
Mùi ổ rơm.
 Nguyễn Bính
 NHÖÕNG BOÙNG NGÖÔØI
 TREÂN SAÂN GA
Những cuộc chia lìa khởi tự đây 
Cây đàn sum họp đứt từng dây 
Những đời phiêu bạt thân đơn chiếc 
Lần lượt theo nhau suốt tháng ngày. 
 Có lần tôi thấy hai cô gái 
 Sát má vào nhau khóc sụt sùi 
 Hai bóng chung lưng thành một bóng 
 "Đường về nhà chị chắc xa xôi ?"
Hai chàng- tôi thấy, tiễn đưa nhau 
Kẻ ở sân ga kẻ dưới tàu 
Họ giục nhau về ba bốn bận 
Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu.
 Có lần tôi thấy một người yêu 
 Tiễn một người yêu một buổi chiều 
 Ở một ga nào xa vắng lắm 
 Họ cầm tay họ bóng xiêu xiêu.
Có lần tôi thấy vợ chồng ai 
Thèn thẹn chia tay bóng chạy dài 
Chị mở túi giầu, anh thắt lại: 
"Mình về nuôi lấy mẹ, mình đi!" 
 Có lần tôi thấy một bà già 
 Đưa tiễn con đi trấn ải xa 
 Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng 
 Lưng còng đổ bóng xuống sân ga. 
Có lần tôi thấy một người đi 
Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì 
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ 
Một mình làm cả cuộc phân ly. 
 Những chiếc khăn màu thổn thức bay 
 Những bàn tay vẫy những bàn tay 
 Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt 
 Buồn ở đâu hơn ở chốn này?
Tôi đã từng chờ những chuyến xe
Đã từng đưa đón kẻ đi về
Sao nhà ga ấy, sân ga ấy
Chỉ để trong lòng dấu biệt ly!
 Thu Bồn 
Tạm biệt Huế 
Bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ 
Chén ngọc giờ chìm đáy sông sâu 
Những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quyên lãng 
Mặt trời vàng và mắt em nâu. 
Xin chào Huế một lần anh đến 
Ðể ngàn lần anh nhớ trong mơ 
Em rất thực nắng thì mờ ảo 
Xin đừng lầm em với cố đô. 
áo trắng hỡi thuở tìm em thấy 
Nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền 
Nón rất Huế nhưng đời không phải thế 
Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng. 
Nhịp cầu cong và con đường thẳng 
Một đời anh tìm mãi Huế nơi đâu 
Con sông dùng dằng con sông chảy 
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu. 
Tạm biệt Huế với em là tiễn biệt 
Hải Vân ơi xin người dừng tắt ngọn sao khuya 
Tạm biệt nhé chiếc hôn thầm lặng 
Anh trở về hóa đá phía bên kia.
 Đồng Đức Bốn
Vào chùa 
 Đang trưa ăn mày vào chùa
 Sư ra cho một lá bùa rồi đi
 Lá bùa chẳng biết làm gì
 Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày.
 PHAÏM NGOÏC CAÛNH 
 SÖ ÑOAØN 
Sẽ có những sư đoàn thép
Bất kỳ nơi đâu
Không khuất phục tù đày chém giết
Nơi đâu
Người sống nợ nần người đã chết
Bất kỳ nơi đâu
Từ một cây “mút nhét”
Một sải xuồng bơi
Một nọc ong châm góp làm sự nghiệp
Gốc tre xanh thắng trận cả ba đời
Ba mươi triệu tấm lòng xông ra tuyến lửa
Vạch lối điều quân
Vai chảy xe thồ
Trồng cây xanh che chở
Mỗi bước quân đi
Đánh trận trường kỳ
Đêm trước nấp trong lùm bắn tỉa
Sớm sau dàn trận chính qui
Đến trận bão hiệp đồng cả nước
Mỗi sư đoàn mang gió lốc bay đi
Đất giải phóng thênh thang
Sẽ cho ta dàn đội ngũ – sư đoàn
Phía trước gọi ta
Những Điện Biên vòng đai thép tung ra làm chiến dịch
Đòn gánh hậu phương vượt đèo đi phản kích
Hành quân
Hành quân
Trùng điệp những sư đoàn
Đi lên phía Bắc
Tràn về hướng Nam
Những vị tướng lại cầm quân đi đánh giặc
Trải bản đồ
Còn nguyên
Vạch chỉ đỏ thắt quanh hầu giặc Pháp
Bài học chiến tranh nhân dân
Lại tiếp
Trang ấp Bắc – Plây me
Và chiến công lên ngực áo những binh nhì
Đất nước sẽ cho ta
Những chùm con số đẹp
Làm tên gọi khai sinh sư đoàn thép
Này đây
Doi cát Cửu Long xanh
Sư đoàn Châu Thổ
Giữa bãi sú, rừng tràm
Vụt đứng dậy sư đoàn Nam Bộ
Sư đoàn Tây Nguyên
Từ hầm chông bẫy đá cung tên
Này đây Cực Nam Phan Rang – Phan Thiết
Này đây Quảng Ngãi – Phú Yên
Trên nguồn xa Ô Lâu – Thạch Hãn
Sẽ tiến về
Sư đoàn Trị Thiên
Lại có một ngày
Mọi cửa ô xanh Sài Gòn hớn hở
Như Hà Nội đã từng
Ba mươi sáu đường hoa tung sóng đỏ
Phất rừng cờ thổi hồng ngọn gió
Đón con em
Đón những sư đoàn
Mang chiến thắng trở về
Rập bước
Ca vang!
 Văn Cao
Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc 
 Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa
 Chập chờn ảo hóa tà ma...
 Đôi dãy hồng lâu cửa mở phấn sa
 Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục
 Lạnh ngắt tiếng ca nhi phách giục
 Tình tang... Não nuột khóc tàn sương
 áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường
 Từng mỹ thể rạc hơi đèn phù thể
 Ta đi giữa đường dương thế
Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây...
Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy
Xác trụy lạc rũ bên thềm lá phủ
Ai hát khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ
Thanh xuân hờ thanh xuân
Bước gần ta chút nữa thêm gần
Khoảng giữa tuổi thanh xuân nghe loạn trùng hút tủy
Ai hủy đời trên tang trống nhỉ?
Hay ác thần gõ quách nạo mồ khuya!
Đảo điên... mê say... Thể phách chia lìa
Nghe reo mạnh, chuỗi tiền cười lạnh lẽo!
Tiền rơi! Tiền rơi! chùm sao huyền diệu
Lấp lánh hằng hà gạo rơi! Tiền rơi!
- Vàng mấy lá thừa đãi mây phủ chiếu
Ngã tư nghiêng nghiêng chia nẻo
Dặt dìu cung bậc âm dương
Tàn xuân nhễ nhại mưa cô tịch
Đầm đìa rả rích phương Đông
Mang mang thở dài hồn đất trích
Lưỡi thép trùng trùng khép cố đô
Cửa ô đau khổ
Bốn ngả âm u
(Nhà ta thuê mái gục tự mùa thu
Gác cô độc hướng về phường Dạ Lạc)
Đêm đêm, dài canh tan tác
Bốn vực nhạc động, vẫy người
Giãy đèn chao thắp đỏ quạnh máu đời
Ta về gác chiếu chăn gào tự tử
Trên đường tối đêm khỏa thân khiêu vũ
Kèn nhịp xa điệu múa vô luân
Run rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm
Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc
Kiếp người tang tóc
Loạn lạc đòi xương chất lên xương
Một nửa kêu than, ma đói sa trường
Còn một nửa lang thang tìm khoái lạc
Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
Đi vào ngõ khói công yên
Thấy bâng khuâng lối cỏ hư huyền
Hương nha phiến chập chờn mộng ảo
Bánh nghiến nhựa đường nghe sào sạo
- Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe
Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề
Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi vực
Mưa, mưa hằng thao thức
Trong phố lội đìu hiu
Mưa, mưa tràn trên vực
- Hang tối gục tiêu điều
Mang linh hồn cô liêu
Tiếng xe càng ám ảnh
Tiếng xa dần xa lánh
Khi gà đầu ô kêu.
 Vũ Cao 
 NÚI ĐÔI
 Bảy năm về trước, em mười bảy
 Anh mới đôi mươi, trẻ nhất làng
 Xuân Dục, Ðoài Ðông hai cánh lúa
 Bữa thì em tới, bữa anh sang
Lối ta đi giữa hai sườn núi
Ðôi ngọn nên làng gọi núi Ðôi
Em vẫn đùa anh: sao khéo thế
Núi chồng núi vợ đứng song đôi!
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi, đành lỗi hẹn
Ðâu ngờ từ đó bặt tin nhau.
Anh vào bộ đội, lên Ðông Bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mấy bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục, núi Ðôi chăng?
Anh nghĩ, quê ta giặc chiếm ...  xuân Việt Nam?
Bao giờ xuân thanh bình sang?
Mùa xuân thống nhất quê hương
Mùa xuân tự do độc lập
Mùa xuân không đượm tóc tang!
Trong hồn day dứt mênh mang
Quê tôi miền Bắc miền Nam
Chắc đang hào hùng chiến đấu
Ngăn bàn tay giặc hung tàn
Giữa muôn hương sắc huy hoàng
Tôi không thấy mùa xuân sang
Hồn tôi ở phương trời ấy
Tôi đợi mùa xuân Việt Nam!
Trần Huyền Trân
 Mưa đêm lều vó 
Mưa lũa ao bèo mưa trắng đêm
Cây bờ ngơ ngác nước đang lên
Lều tôi kiến đã rời lên mái
Bà lão chài lo chửa có thuyền
Vó nghèo được nước đã lê thê
Đàn cá giang hồ nhảy nhót đi
Cả cụm bèo xanh nằm cạn mãi
Cũng như cất cánh gọi không về
Tôi ở lều gianh Cống Trắng này
Chạnh lòng cá nhảy với chim bay
Đêm sầu kẽo kẹt ngư bà thức
Giăng phải hồn tôi một lưới đầy.
Vương Trọng
 Bên mộ cụ Nguyễn Du 
Tưởng rằng phận bạc Ðạm Tiên
ngờ đâu cụ Nguyễn Tiên Ðiền nằm đây
Ngẩng trời cao, cúi đất dày
Cắn môi tay nắm bàn tay của mình
Một vùng cồn bãi trống trênh
Cụ cùng thập loại chúng sinh nằm kề
Hút tầm chẳng cánh hoa lê
Bạch đàn đôi ngọn gió về nỉ non
Xạc xào lá cỏ héo hon
Bàn chân cát bụi, lối mòn nhỏ nhoi
Lặng im bên nấm mộ rồi
Chưa tin mình đã đến nơi mình tìm
Không cành để gọi tiếng chim
Không hoa cho bướm mang thêm nắng trời
Không vầng cỏ ấm tay người
Nén hương tảo mộ cắm rồi lại xiêu
Thanh minh trong những câu Kiều
Rưng rưng con đọc với chiều Nghi Xuân
Cúi đầu tưởng nhớ vĩ nhân
Phong trần còn để phong trần riêng ai
Bao giờ cây súng rời vai
Nung vôi, chở đá tượng đài xây lên
Trái tim lớn giữa thiên nhiên
Tình thương nối nhịp suốt nghìn năm xa...
 Đoàn Phú Tứ
 Màu thời gian 
Sớm nay tiếng chim thanh 
Trong gió xanh 
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình 
Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần Phi 
Ta lặng dâng nàng 
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian 
Màu thời gian không xanh 
Màu thời gian tím ngát 
Hương thời gian không nồng 
Hương thời gian thanh thanh 
Tóc mây một món chiếc dao vàng 
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương 
Trăm năm tình cũ lìa không hận 
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng 
Duyên trăm năm đứt đoạn 
Tình muôn thuở còn hương 
Hương thời gian thanh thanh 
Màu thời gian tím ngát.
 Hàn mặc Tử
 Đây thôn Vỹ Dạ 
Sao anh không về chơi thôn Vỹ? 
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên, 
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc 
Lá trúc che ngang mặt chữ điền. 
Gió theo lối gió, mây đường mây 
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay... 
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, 
Có chở trăng về kịp tối nay? 
Mơ khách đường xa, khách đường xa, 
Áo em trắng quá nhìn không ra... 
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh, 
Ai biết tình ai có đậm đà? 
 Cầm Vĩnh Ui
 Nhớ vợ 
Tôi nhớ vợ tôi lắm
Xin được về hai ngày
Nhà tôi ở Mường Lay
Có con sông Nậm Rốm
Ngày kia tôi sẽ đến
Lại cầm súng được ngay
Tôi càng bắn đúng Tây
Vì tay có hơi vợ
Cho tôi đi, đừng sợ
Tôi không chết được đâu
Vì vợ tôi lúc nào
Cũng mong chồng mạnh khoẻ
Cho tôi đi anh nhé
Về ôm vợ hai đêm
Vợ tôi nó sẽ khen
Chồng em nên người giỏi
Ngày kia tôi về tới
Được đi đánh cái đồn
Hay được đi chống càn
Là thế nào cũng thắng
Nếu có được trên tặng
Cho một cái bằng khen
Tôi sẽ rọc đôi liền
Gửi cho vợ một nửa.
 Bạc Văn Ùi
 Em tắm 
Sao anh lại rình
Trộm xem em tắm?
Da của em ngần trắng
Da của ái của êm 
Tay của em lấm lem
Tay của than của bụi
Tay của rừng của núi
Tay của đất của nương.
Em tắm xong lại sạch
Vẫn ngát thơm hoa rừng
Da của em trắng ngần
Là của anh tất cả,
Không phải người xa lạ
Việc gì mà trộm xem!
Em tắm suối giữa mường
Tắm xong mối yêu thương
Có anh đang đứng giữ
Chớ để Tây đến mường.
 Đinh Thị Thu Vân
 Một ngày ta ngoái lại 
Rồi sẽ có một ngày ta ngoái lại
Bạn bè ơi khi ấy có còn nhau?
Cơn lốc đời đưa đẩy bạn về đâu
Ta ngoái lại tìm nhau, e mất dấu!
Ta ngoái lại tìm nhau mong ẩn náu
Góc bạn bè êm ấm, càm thông ơi
Ta ngoái lại rụng rời đôi cánh mỏi
Góc bạn bè tin cậy, bớt chơi vơi.
Ta ngoái lại tìm nhau, đừng sỏi đá
Đừng vập dùi chi nữa, trái tim hoang
Thôi đừng nhớ, đừng quên, đừng xa vắng
Xin một lần tha thứ thuở lang thang.
Tha thứ nhé, bạn ơi đừng cay đắng
Ta quẩn quanh nuôi giữ xót xa mình
Tha thứ nhé, niềm vui không vóc dáng
Thuở đam mê bạn bè khuất xa dần.
Rồi sẽ có một ngày sau tháng ngày dâu bể
Chúng mình cùng ngoái lại tìm nhau
Ta nói yêu thương khi mắt đổi thay màu
Bàn tay héo cầm lên cho ấm mãi.
Trái tim héo, nụ cười xưa dẫu héo
Chi xin đừng tàn lụi chút niềm tin
Dẫu mong manh vụn vỡ chẳng nguyên lành
Xin hãy có một ngày nhen nhóm lại.
 Chế Lan Viên 
 TOÅ QUOÁC BAO GIÔØ ÑEÏP THEÁ NAØY CHAÊNG
 Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
 - Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất
 Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
 Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
 Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.
 Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng...
Những ngày tôi sống đây là ngày đẹp hơn tất cả
Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn:
Trái cây rơi vào áo người ngắm quả,
Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn,
Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ,
Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn...
Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời,
Cửa vẫn đóng và Đời im im khoa
Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn Chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi!
Có phải cha ông đến sớm chăng và cháu con thì lại muộn?
Dẫu có bay giữa trăng sao cũng tiếc không được sống phút giây bây giờ
Buổi đất nước của Hùng Vương có Đảng,
Mỗi người dân đều được thấy Bác Hồ,
Thịt xương ta, giặc phơi ngoài bãi bắn
Lại tái sinh từ Pắc Bó, Ba Tơ...
Không ai có thể ngủ yên trong đời chật
Buổi thủy triều vẫy gọi những vầng trăng.
Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt,
Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm,
Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt,
Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng...
Ôi! Trường Sơn vĩ đại của ta ơi!
Ta tựa vào ngươi, kéo pháo lên đồi,
Ta tựa vào Đảng ta, lên tiếng hát,
Dưới chân ta, đến đầu hàng Đờ-cát,
Rồng năm móng vua quan thành bụi đất,
Mỗi trang thơ đều dội tiếng ta cười!
Đều lộng hương thơm những cánh đồng hợp tác
Chim cu gần, chim cu gáy xa xa...
Ruộng đoàn tụ nên người thôi chia cắt,
Đêm no ấm, giọng chèo khuya khoan nhặt,
Lúa thêm mùa khi lúa chín về ta.
Rồi với đôi tay trắng từ Đinh, Lý, Trần, Lê...
Đảng làm nên công nghiệp.
Điện trời ta là sóng nước sông Hồng
An Dương Vương hãy dậy cùng ta xây sắt thép,
Loa thành này có đẹp mắt Người chăng?
Ong bay nhà khu Tỉnh ủy Hưng Yên
Mật đồng bằng mùa nhãn ngọt môi em
Cây xanh ngắt đất bạc mầu Vĩnh Phúc...
Ôi! Cái thuở lòng ta yêu Tổ quốc
Hạnh phúc nào không hạnh phúc đầu tiên?
Ôi, cái buổi sinh thành và tái tạo
Khi thiếu súng và khi thì thiếu gạo
Nhung phù sa đẻ ra những Cà Mau thịnh vượng mai sau.
Dẫu là Chúa cũng sinh từ ruột máu,
Ta đẻ ra đời, sao khỏi những cơn đau?
Hãy biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn!
Ôi! Thương thay những thế kỷ vắng anh hùng,
Những đất nước thiếu người cầm thanh gươm nghìn cân ra trận,
Nhà thơ sinh đồng thời với mưa phùn và những buổi hoàng hôn,
Cả xứ sở trắng một màu mây trắng,
Ai biết mây trên trời buồn hơn hay thơ mặt đất buồn hơn?
Chọn thời mà sống chăng? Anh sẽ chọn năm nào đấy nhỉ?
- Cho tôi sinh ra buổi Đảng dựng xây đời,
Mắt được thấy dòng sông ra gặp bể,
Ta với mẻ thép gang đầu là lứa trẻ sinh đôi,
Nguyễn Văn Trỗi ra đi còn dạy chúng ta cười...
Cho tôi sinh giữa những ngày diệt Mỹ,
Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy
Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi
 Bằng Việt
Bếp Lửa
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm 
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa 
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói 
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi 
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy 
Chỉ nhớ khói hung nhèm mắt cháu 
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay 
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa 
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa 
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà 
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế 
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế 
Mẹ cùng cha bận công tác không về 
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe 
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học 
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc 
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà 
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa? 
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi 
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi 
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh 
Vẫn vững lòng, bà dặc cháu đinh ninh 
Bố ở chiến khu bố còn việc bố 
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ 
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên 
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen 
MỘt bếp lửa lòng bà luôn ủ sẵn 
Một bếp lửa chứa niềm tin dai dẳng 
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa 
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ 
Bà vẫngiữ thói quen dậy sớm 
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm 
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi 
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui 
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ 
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng- Bếplửa 
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu 
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả 
Nhưng vẫn chẳng bao giờ quên nhắc nhở 
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
 Lưu Quang Vũ
Vườn trong phố 
Trong thành phố có một vườn cây mát 
Trong triệu người có em của ta 
Buổi trưa nắng bầy ong đi kiếm mật 
Vào vườn rồi ong chẳng nhớ lối ra 
Vườn em là nơi đọng gió trời xa 
Hoa tím chim kêu bàng thưa lá nắng 
Con nhện đi về giăng tơ trắng 
Trái tròn căng mập nhựa sinh sôi 
Nơi ban mai cỏ ướt sương rơi 
Một hạt nhỏ mơ hồ trên má 
Hơi lạnh nào ngón tay cầm se giá 
Suốt cuộc đời cũng chẳng hiểu vì sao 
Nơi đêm khuya vọng lại tiếng còi tàu 
Bỗng nhớ xa xôi những miền đất nước 
Nơi bài hát lên đường ta hẹn ước 
Nơi góc vườn ta để quên chùm hoa 
Nơi vòm lá rì rào xao động cơn mưa 
Quả ngọt chín khi mùa ve lại đến 
Những chân trời màu hồng những chân trời màu tím 
Những ngôi sao bàng bạc cả hoàng hôn 
Nơi lá chuối che nghiêng như một cánh buồm 
Cánh buồm xanh đi về trong hạnh phúc 
Se sẽ chứ không cánh buồm bay mất 
Qua dịu dàng ẩm ướt của làn môi 
Dưa hấu bổ ra thơm suốt ngày dài 
Em cũng mát lành như trái cây mùa hạ 
Nước da nâu và nụ cười bỡ ngỡ 
Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa 
Đến bây giờ đánh giặc anh đi xa 
Nhìn lại mảnh vườn xưa thấy hẹp 
Biết bao điều anh còn chưa nói được 
Rối rít trong lòng một nỗi em em 
Rừng rậm đèo cao anh đã vượt lên 
Theo tiếng gọi con tàu ngày bé dại 
Vườn không níu được bước chân trở lại 
Nhưng lá còn che mát suốt đường anh 
Mảnh vườn em vẫn là mảnh vườn xanh 
Nơi ban đầu lòng ta ươm tổ mật 
Nơi ta hái những chùm thơ thứ nhất 
Nơi thu sang mây trắng vẫn bay về.
 Trần Tế Xương
 Thương vợ 
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo nước mắt buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không!

Tài liệu đính kèm:

  • doc100 BAI THO HAY NHAT THE KY XX.doc